Lịch sử

Sự phản bội đáng kinh tởm nhất đối với các phong trào cách mạng trong suốt lịch sử của nhân loại



Vào ngày 21.2.1979 tại thủ đô Havana ( Cuba) Chủ tịch Cuba Fidel Castro đã có bài phát biểu trước hàng nghìn người dân nước này khi họ đang chuẩn bị tuần hành phản đối việc Trung Quốc bất ngờ tấn công toàn tuyến biên giới của Việt Nam :
.
“Một trong những hành vi ghê tởm, hèn hạ, khốn nạn nhất mà chúng ta từng chứng kiến... là sự xâm lược Việt Nam vào lúc này. Đây là một tội ác khủng khiếp. Tội ác này không còn là của những kẻ thực dân, những đế quốc Nhật Bản, thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ mà là của một quốc gia mà vài năm gần đây còn được xem là bức tường thành của cách mạng thế giới, một nước xã hội chủ nghĩa, một đất nước chống đế quốc, một đất nước thân thiện với các phong trào cách mạng... Đây là sự phản bội đáng kinh tởm nhất đối với các phong trào cách mạng trong suốt lịch sử của nhân loại .


Tất nhiên chúng ta sẽ không nói người dân Trung Quốc đã gây ra sự phản bội này... Họ thậm chí không biết điều gì đang xảy ra tại thời điểm này. Họ không biết rằng lúc này Việt Nam đang bị tấn công , Việt Nam đang bị xâm lược. Những gì họ biết là sự lừa dối thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, phát thanh, truyền hình, báo chí trong tay của bè lũ phản động. Nhưng đâu thể dễ dàng qua mắt cả một dân tộc ! Vì vậy tôi tự hỏi tại sao lúc này giới lãnh đạo Trung Quốc không nói với nhân dân họ về sự thật của cuộc chiến tranh xâm lược, sự xâm lược trắng trợn đang chống lại nhân dân Việt Nam ?”.
Chi tiết

[Tìm hiểu lịch sử] - Tổ, Tông và Đế hay là Cách gọi tên các vị vua Việt Nam

Tổ, Tông và Đế hay là Cách gọi tên các vị vua Việt Nam

Chỉ sau khoảng 10 phút dạo quanh quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, chúng ta có thể đi qua bốn con phố Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ và Quang Trung. Điều đáng nói là bốn vị vua này được gọi tên theo những cách hoàn toàn khác nhau:
  • - Ngô Quyền: Tên riêng, họ Ngô tên Quyền, không có tôn hiệu
  • - Đinh Tiên Hoàng: Họ Đinh + tôn xưng Tiên Hoàng (vị vua đã mất)
  • - Lê Thái Tổ: Họ Lê + miếu hiệu Thái Tổ
  • - Quang Trung: Niên hiệu của vị vua có tên thật là Nguyễn Huệ

Tại sao lại có những cách gọi khác nhau như trên?


Trước hết hãy tìm hiểu về niên hiệu và miếu hiệu.
Niên hiệu là tên gọi do hoàng đế đặt ra khi lên ngôi, ví dụ như Thuận Thiên, Nguyên Phong, Hồng Đức, Gia Long, Minh Mạng… Tất cả các hoàng đế đều có niên hiệu.

Miếu hiệu là tên hiệu trong tông miếu dành cho các vị quân chủ sau khi họ qua đời, thường là do vị vua tiếp theo đặt cho vị vua trước. Miếu hiệu thường ngắn và có một trong hai từ Tổ hoặc Tông, đi trước nó là một tính từ miêu tả công đức của vị vua đó, ví dụ như Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông…. Phần lớn các hoàng đế từ thời Lý trở về sau có miếu hiệu, trừ một số trường hợp đặc biệt.

Bây giờ hãy trở lại trường hợp của 4 vị nói trên.

  • - Ngô Quyền: Chỉ xưng Vương, không xưng Đế, sách sử thường gọi ông là Tiền Ngô Vương. Con cháu Ngô Quyền sau này cũng không đặt miếu hiệu cho ông nên hậu thế chỉ có thể gọi ông là Ngô Vương/Ngô Vương Quyền/Ngô Quyền.
  • - Đinh Tiên Hoàng: Tên thật là Đinh Bộ Lĩnh, xưng đế và đặt niên hiệu là Thái Bình, nhưng con cháu không đặt miếu hiệu nên sử sách chỉ gọi là Đinh Tiên Hoàng.
  • - Lê Thái Tổ: Tên thật Lê Lợi, xưng đế với niên hiệu Thuận Thiên, về sau được tôn miếu hiệu là Thái Tổ.
  • - Quang Trung: Tên thật Nguyễn Huệ, xưng đế với niên hiệu Quang Trung, không có miếu hiệu.
Như vậy danh xưng Ngô Quyền và Đinh Tiên Hoàng là dễ hiểu. Nhưng câu chuyện của Lê Thái Tổ và Quang Trung lại đưa đến một kết luận khác: từ thời Lê trung hưng trở về trước, các hoàng đế Việt Nam hầu như luôn luôn được gọi bằng miếu hiệu (Lý/Trần/Lê + Thái Tổ/Thái Tông/Thánh Tông/Nhân Tông….), còn từ sau thời Lê thì họ được nhắc đến qua niên hiệu (Quang Trung, Cảnh Thịnh, Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Duy Tân, Hàm Nghi….). Vì sao?

Bởi vì từ Lý đến Lê, các hoàng đế Việt Nam thường sử dụng nhiều niên hiệu trong suốt thời gian trị vì. Các vua nhà Lý thường có 5-6 niên hiệu, nhà Trần có 2, nhà Lê có 2-3… do đó việc sử dụng niên hiệu để gọi tên một vị vua đương nhiên không khả thi. Nếu dùng niên hiệu thì Lê Tư Thành có thể được gọi là vua Quang Thuận hoặc vua Hồng Đức, Trần Khâm có thể được gọi là Trùng Hưng hoặc Thiệu Bảo, còn nếu dùng miếu hiệu thì hai vị đó đơn giản là Lê Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Cá biệt như Lý Thái Tông có tới 6 niên hiệu (Thiên Thành, Thông Thụy, Càn Phù Hữu Đạo, Minh Đạo, Thiên Cảm Thánh Vũ, Sùng Hưng Đại Bảo).

Kể từ Tây Sơn, các hoàng đế Việt Nam (trừ Nguyễn Quang Toản) đều chỉ có một niên hiệu. Nguyễn Huệ có niên hiệu Quang Trung, Nguyễn Phúc Ánh có niên hiệu Gia Long, Nguyễn Phúc Đảm có niên hiệu Minh Mạng, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy có niên hiệu Bảo Đại…. Do đó các sử gia dùng niên hiệu để gọi các vị này cho tiện.

Đến đây lại nảy sinh một câu hỏi nữa, vì sao kể từ Tây Sơn thì các hoàng đế Việt Nam chỉ dùng một niên hiệu? Vì phép đặt niên hiệu của hoàng đế Việt Nam bị ảnh hưởng nhiều bởi các hoàng đế Trung Hoa. Từ Hán đến Tống, thuyết thiên nhân cảm ứng được đề cao nên các hoàng đế Trung Hoa thường xuyên thay đổi niên hiệu mỗi khi nước nhà bị hạn hán, lũ lụt… hoặc đơn giản là cảm thấy đang gặp nhiều vận đen. Nói nôm na là “đổi tên để mong đổi vận". Kể từ triều Minh, vai trò của thuyết thiên nhân cảm ứng được hạ thấp nên các hoàng đế chỉ đặt một niên hiệu, bắt đầu từ Hồng Vũ Đế Chu Nguyên Chương. Nhà Thanh vào Trung Nguyên và tiếp thu phần lớn chế độ của triều Minh, bao gồm cả cách đặt niên hiệu. Vì học theo phép đặt niên hiệu của hai triều Minh – Thanh nên các hoàng đế nhà Nguyễn cũng chỉ có một niên hiệu duy nhất.

Tóm lại, vì chịu ảnh hưởng của các triều đại Trung Hoa từ Hán, Đường đến Tống nên các triều đại Việt Nam từ Lý, Trần, Lê thường dùng nhiều niên hiệu, khiến sử gia phải dùng miếu hiệu để gọi các hoàng đế, từ đó tạo ra những tên đường như Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông… . Vì học theo hai triều Minh, Thanh nên vua nhà Nguyễn chỉ có một niên hiệu, từ đó chúng ta có những con đường như Thành Thái, Duy Tân, Hàm Nghi… Đó có lẽ cũng là một điểm thú vị của tên các con phố Hà Nội.


Nguồn: Truong Quang Hai/Hội những người thích tìm hiểu Lịch Sử
Chi tiết

Những con mắt biển Đông hướng về đất mẹ

MẮT BIỂN ĐÔNG

Tôi ra lô Tư Chính hồi tháng 5 vừa rồi, đã thấy thấp thoáng những con tàu khác, không có cờ đỏ sao vàng. Tuần trước, lòng bỗng cồn cào, tôi gọi ra cho một số chiến sĩ nhà giàn: “Các anh thế nào?” - “Chúng tôi vẫn công tác tốt. Chỉ cần mọi người giữ lòng, chỉ cần đất liền được bình yên”.

Nghe họ nói thế, nhưng tôi chẳng dám khẳng định các anh đang hoàn toàn yên ả. "Các anh cần gì không?", tôi gặng hỏi. Một người nói anh muốn xin vài ấm trà mạn Thái Nguyên để uống đêm. Tôi và một số bạn bè quyên góp chè, trong lòng tôi luôn hiện ra cảnh những đêm thao thức của lính nhà giàn, chong mắt ra biển khơi gió lộng.

Trong chuyến đi Trường Sa tháng 5 rồi, tôi đã đếm và ghi chép. Quần đảo có chín ngọn hải đăng, khác nhau hoàn toàn về thiết kế, chiều cao, màu sắc, tính chất sáng. Ở nơi xa khơi này, chớp sáng của hải đăng, chính là Tổ quốc.

Chín ngọn hải đăng, chín mắt thần đặc biệt. Tàu thuyền từ đất liền ra khơi sẽ nhìn thấy hải đăng Đá Lát, ngọn đèn cao nhất mà cũng gian khó nhất. Đẹp nhất lại phải kể tới hải đăng Đá Tây nằm cạnh đảo Đá Tây. Mỗi ngày, bình minh hay hoàng hôn, ánh nắng đều xuyên suốt tạo nên vẻ kỳ vĩ, vừa hắt thẳng lên ngọn đèn, vừa chiếu xuống biển có thềm san hô muôn màu. Từ sắc màu thiên nhiên pha trộn ấy, khúc xạ lên ngọn tháp. Đá Tây cũng là một trong những điểm tránh trú bão của quần đảo. Bão to đến, tàu thuyền sẽ về lòng hồ Đá Tây neo trú.

Hải đăng Sinh Tồn có kiến trúc vững chãi với chân đế vuông, uy nghi nổi trên nền xanh của đảo. Hải đăng Sơn Ca trông rất lãng mạn, hình trụ, cửa sổ tròn, sơn màu đỏ vàng, chóp đèn giống như vương miện chúa biển.

Những con người chăm ngọn đèn không bao giờ tắt ấy đa phần gắn bó với đảo rất nhiều năm, có người vài ba chục năm là bình thường. Lúc rủi ro, hiểm nguy trên biển, tàu thuyền cần nhất hải đăng. Chớp sáng của hải đăng chính là Tổ quốc, là nhịp tim, là mắt thần chốn đảo xa quyết định hướng đi cho tàu thuyền lênh đênh trên biển cả.

Tôi gặp anh Trịnh Văn Nguyên quê ở Hải Phòng, người có 23 năm công tác tại 6 trong 9 ngọn hải đăng ở quần đảo Trường Sa. Chừng ấy năm công tác, anh có 17 lần ăn Tết ở đảo xa, 8 năm liên tiếp đón giao thừa ở đây. Tôi hỏi anh về nỗi vất vả, anh cười. Anh bảo, ở đây khí hậu khắc nghiệt, gió bão thất thường, "đến cây lá còn khổ sở, người dẫu gì cũng còn nghe hơi ấm từ nhau". Ám ảnh nhất với anh là ánh mắt bạc phếch, vô hồn, cạn khô của ngư dân bỗng rỉ ra một dòng nước đục màu muối.

Đó là khi anh nhớ những lần cùng đồng đội cứu hộ ngư dân trên biển. Thường đó là những ngày thiên tai, người đi biển sau giông bão bị mất phương hướng và chỉ còn biết dạt trôi theo sóng biển, đợi chờ một phép màu được cứu. Khi được lực lượng gác hải đăng phát hiện, báo cho bộ đội trên đảo để làm công tác cứu hộ cứu nạn, những ngư dân sẽ gặp phép màu.

Thường khi các anh nhìn thấy, họ đã đói khát nhiều ngày, gần như tin rằng không còn cơ hội sống sót. Nước chảy từ mắt họ trôi trên gò má đen đúa. Anh bảo giọt nước mắt đầu tiên có lẽ là giọt nước mắt tuyệt vọng, vì không dám tin mình còn thấy mặt người. Mãi một lúc sau họ mới tin là "được gặp bộ đội mình" – tia sáng cuối cùng với họ giữa biển mênh mông. Và khóc vì sung sướng.

Vậy mà anh Nguyên vẫn không ít lần cảm thấy bất lực và có lỗi, vì có những ngư dân không thể tìm ra hải đăng để trở về. Khác đại biểu lên thăm đảo, với ngư dân, bộ đội luôn có cảm xúc đặc biệt. Vì mưu sinh, ngư dân phải bám biển, bám hải đăng, dựa vào bộ đội mình. Các anh đều có cảm giác ngư dân là máu mủ của mình. Có những người lính tâm sự, họ nhìn thấy ngư dân khắc khổ mà như nhìn thấy bố, mẹ, anh chị em, bà con của họ ở quê nhà. Đó là khi cái cảm giác máu mủ, dân tộc, quê hương trỗi dậy rất mãnh liệt.

Hai nhăm năm trôi qua, rất nhiều lớp người đã thiết kế, thi công, đúc cẩu, nổ mìn, dọn đá, tạo luồng dài cả cây số để đặt bằng được ngọn đèn sáng. Kỳ tích ấy tính đúng theo nghĩa đen, là bằng máu xương, nước mắt.

Hải đăng có số phận và đời sống vừa gắn liền với đảo, vừa làm nên một không gian riêng. Mỗi ngọn hải đăng có biên chế dăm người, thay nhau túc trực suốt 24 giờ, thông tin về đất liền các hoạt động của tàu thuyền cũng như sự thay đổi của thời tiết trên biển. Vừa canh gác, bảo dưỡng, vận hành hải đăng, họ vừa tăng gia sản xuất như bộ đội, cũng trồng rau, nuôi lợn, nuôi gà. Bộ đội hay gọi hải đăng là nhà đèn, anh em ở đó là thợ đèn. Từ ngữ ý chỉ nơi giữ gìn, chăm lo nguồn sáng vĩnh cửu bất kể ngày đêm, mưa gió.

Tôi nhớ rất rõ một chiều trên đảo Nam Yết, đằng kia văn công ca hát rộn ràng, chung quanh toàn bộ đội, đằng này đủ năm anh em nhà đèn trầm lặng. Có lẽ bao ngày qua họ vẫn luôn như thế. Một người đang tỉ mỉ lau ô cửa. Lau đi lau lại dù nó rất sạch rồi. Người khác ngồi bình thản, tay phải đặt hờ lên thành ấm trà. Sau lời chào hỏi của tôi, lập tức không khí đổi khác. Người đang lau cửa bước xuống, người ngồi bàn nước đứng lên, đâu đâu thêm vài người xôn xao tụ lại. Vẫn chỉ sáu cái chén con con, cứ xếp đi đặt lại, quanh quất chờ trà ngấm đều để rót. Ai cũng kiệm lời, bình dị. Ai quê nào, họ giữ nguyên giọng như thế để trò chuyện.

"Đồng chí đi công tác vất vả quá, còn ra tận đây thăm anh em". Tôi suýt bật cười khi nghe đến "ra tận đây". Từ cầu tàu, trung tâm đảo, đi bộ thảnh thơi lắm chỉ mất mươi, mười lăm phút mà anh làm như thể xa xôi.

Đang dở chuyện, bỗng hồi còi hú lên, nhà đèn nhất loạt đứng dậy, mắt ngời ngời như gặp tình thân. Hỏi ra, tàu thuyền ngư dân lúc ghé thăm trạm được, lúc không, họ kéo còi chào. Chẳng gặp nhau đâu, âm thanh cũng đủ dấy lên niềm thân thuộc.

Trong cuốn sổ "Tâm tình người lính" ở đảo Đá Đông có hàng trăm trang viết tay của nhiều thế hệ chiến sĩ. Tôi mở trang nhật ký có tên Chỉ huy trưởng Trần Văn Phúc, anh nhắn gửi đồng đội của mình: "Hãy luôn giữ vững lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa biển đảo quê hương".
 Nguồn : Lữ Mai/VN Express

#DDC


Chi tiết

Vụ lấy cắp chiếc máy bay UH-1A và cái tên Điệp viên Hồ Duy Hùng

Hồ Duy Hùng (đứng thứ nhất bên trái) khi đang học lái máy bay tại Mỹ năm 1970. Ông là một điệp viên Mặt trận giải phóng miền Nam cài cắm vào quân lực VNCH,

Hồ Duy Hùng là người đã lấy cắp chiếc máy bay UH-1A bay ra vùng kiểm soát của Mặt trận Giải phóng miền Nam , làm xôn xao dư luận miền Nam thời bấy giờ với "Vụ án tản thất quân dụng" cuối năm 1973.

Điều thú vị là thời điểm đó ông đã bị sa thải khỏi quân đội và có lệnh truy nã vì tình nghi dính líu đến "Việt cộng". Trực thăng bị lấy cắp là loại UH-1A số hiệu 60139, thuộc phi đoàn 215, Sư đoàn 2 Không quân, đang đậu cạnh hồ Xuân Hương, Đà Lạt. Hồ Duy Hùng lái bay len lỏi trong dãy Trường Sơn để tránh hỏa lực của cả hai phía rồi bất ngờ hạ cánh xuống Dầu Tiếng (Tây Ninh) thuộc vùng giải phóng.

Hiện tại, ông đang giữ chức Ủy viên Hội đồng Quản trị Tổng công ty Du lịch Sài gòn, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Công viên nước Đầm Sen, TP. Hồ Chí Minh.

Ảnh: THEO DÒNG SỬ VIỆT

Chi tiết

LỰC LƯỢNG ĐẶC CÔNG VÀ CUỘC CHIẾN BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979

LỰC LƯỢNG ĐẶC CÔNG VÀ CUỘC CHIẾN BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979

Sáng 17/2/1979, Trung Quốc đồng loạt nổ súng tấn công 6 tỉnh biên giới với Việt Nam. Tình hình vô cùng căng thẳng, các quân đoàn chủ lực, tinh nhuệ của ta đều đang tham chiến truy kích Pôn Pốt tại Campuchia, chưa thể về chi viện kịp.

    Ngay đêm 20/2/1979, một đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô do Đại tướng Obaturov dẫn đầu đáp xuống sân bay Nội Bài và nhanh chóng trao đổi với các tướng lĩnh Việt Nam để nhận định tình hình, đối phó kịp thời.
   Tổng bí thư Lê Duẩn đồng ý ý kiến của các chuyên gia Liên Xô về việc mở một cuộc không vận lớn chưa từng có để chuyển quân từ K ra Bắc chiến đấu. Kế hoạch nhanh chóng được triển khai với sự giúp đỡ của Liên Xô. Đã có 805 chuyến bay vận chuyển quân sự chở 8.900 lượt quân (cùng 1.000 tấn hàng) để điều chỉnh bố trí lại thế trận của Bộ Quốc phòng.

  Riêng với đặc công - lực lượng tinh nhuệ - đi trực thăng UH-1, CH-47, Mi-8, Mi-6 của trung đoàn 917. Trung đoàn 916 chở quân từ các nơi về sân bay Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Đà Nẵng. Sau đó, bộ đội hành quân ra Bắc bằng máy bay của trung đoàn không quân 918 và phi đội máy bay An-12 do các phi công Liên Xô lái.
   Cũng trong thời gian này, phi đội 10 máy bay tiêm kích F-5 của trung đoàn không quân 935, 10 máy bay ném bom A-37 của trung đoàn không quân 937 từ miền Nam đã tập kết ở sân bay Nội Bài.

    Với sự giúp đỡ của Liên Xô, các quân đoàn chủ lực, tinh nhuệ của ta đang tham chiến ở Campuchia đã được nhanh chóng chuyển ra chi viện cho miền Bắc. Bộ Quốc phòng lệnh cho Bộ Tư lệnh Đặc công khẩn trương điều động Tiểu đoàn đặc công 27 và Tiểu đoàn 198 quay trở về nước, ra miền Bắc nhận nhiệm vụ mới, tiếp tục điều động Tiểu đoàn đặc công 45 phối thuộc cho Bộ Tư lệnh Quân khu 1 tham gia chiến đấu.

   Các đơn vị đặc công di chuyển bằng trực thăng đến vị trí tập kết, Trung Quốc tấn công ta rạng sáng 17/2/1979 thì ngay đêm đó tiểu đoàn Đặc công đã nhận lệnh cơ động ra miền Bắc để chiến đấu. Khí thế ngùn ngụt, ai cũng sẵn sàng cao độ cầm súng chiến đấu. Đến hôm 20/2/1979, tiểu đoàn đặc công triển khai hầm hào, công sự chiến đấu, sau đó tổ chức đánh 2 trận, phục kích 1 trận, tập kích 1 trận.

   Đặc biệt vào hôm 10/3/1979, lực lượng Đặc công mật phục ,tới khi đoàn xe hàng chục chiếc chở quân và đạn tên lửa H12 của quân Trung Quốc lọt vào tầm bắn, lệnh công kích phát ra, lính đặc công tiểu đoàn 45 đồng loạt khai hỏa bằng súng AK, B41, lựu đạn, thủ pháo và cối 82 ly. Cả đoàn xe cơ giới gần 20 chiếc của đối phương bị đánh tan tác, gần 200 tên bị tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu. Ngay lúc đó, phát hiện có lực lượng địch đóng chốt tại khu vực đồi Thiên Văn, Yên Ngựa bỏ chạy leo lên đồi cao nhìn xuống nơi đồng bọn bị tập kích, nắm đúng thời cơ, trung đội trưởng cối 82 ly ra lệnh đánh. Hàng chục quả đạn đã được tính toán kĩ lưỡng phần tử bắn nối đuôi nhau giội lửa xuống đầu địch, tiêu diệt hơn 100 tên nữa.  Đây thực sự là một trận xuất sắc của đặc công tiểu đoàn 45. Tất cả trận đánh chỉ diễn ra trên 20 phút. Sau đó, tiểu đoàn đặc công 45 còn tổ chức nhiều đợt truy kích giặc khi chúng đang rút chạy.
 Nguồn :  QDND

 #DDC
Chi tiết

Những cuộc đối đáp giữa Tổng bí thư chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào

Những cuộc đối đáp giữa Tổng bí thư chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào để thấy đường lối ngoại giao Việt Nam không đơn giản.
Tháng 10/2011, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào có cuộc gặp tại Bắc Kinh. Trong một buổi nói chuyện, ông Hồ Cẩm Đào phát biểu:
"Chúng tôi không thể bỏ đường 9 đoạn được, vì nó là cái lịch sử để lại, nếu chúng tôi bỏ nó thì người dân Trung Quốc không theo chúng tôi".
Đáp lại câu này, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói:
"Các đồng chí nói sai rồi. Cái đường đó đâu phải là đường lịch sử để lại. Đường đó là của Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi và các đồng chí đều không công nhận Tưởng Giới Thạch, vì thế làm sao có thể công nhận sản phẩm của họ? Nếu các đồng chí nói lịch sử thì lẽ ra phải nói đến Nhị thập tứ sử hay Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ chứ?"
(Cụ Tổng nhắc khéo anh Hồ Cẩm Đào là nếu công nhận Tưởng Giới Thạch thì tức là công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập, đi ngược chính sách "Một Trung Quốc" được Bắc Kinh theo đuổi)
Đến đây, Hồ Cẩm Đào chỉ còn biết im lặng. Từ đó về sau không bao giờ thấy người đứng đầu Trung Quốc, kể cả Tập Cận Bình, chủ động nhắc đến vấn đề này đối với Đoàn công tác Trung ương của Việt Nam.
----------------------------------------------------
Anh Hồ Cẩm Đào lại nó với đại ý: "Vừa rồi Việt Nam khai thác mấy trăm triệu tấn dầu trong đường 9 khúc mà không ý kiến gì với Trung Quốc" - ý muốn nắn gân, thử xem phản ứng của ta ra sao.

Đáp lại, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng điềm đạm nói: "Việt Nam khai thác dầu trên thềm lục địa của Việt Nam. Nếu các đồng chí nói đó là lãnh thổ Trung Quốc thì cứ đệ đơn ra tòa quốc tế mà kiện, tòa phán sao Việt nam chấp hành vậy".

Sau câu nói này thì anh Hồ Cẩm Đào cạn lời, phải làm ngơ đá sang chuyện khác.
----------------------------------------------------
** Chú thích:
- "Nhị thập tứ sử" là bộ chính sử được các triều đại Trung Quốc thừa nhận, trong đó ghi chép từ Thượng cổ đến thời nhà Thanh. Các mục địa lý trong bộ sử ký này đều không đề cập đến các hòn đảo xa hơn đảo Hải Nam.

- “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ” là tập bản đồ của Trung Quốc được thực hiện dưới thời nhà Thanh và xuất bản năm 1904, trong đó ghi rõ cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam.

- Quán bia tổng hợp -
Chi tiết

Trích dịch đoạn phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 6/1964 của một nhà báo Pháp.

- Thưa Ngài chủ tịch, Ngài có thể cho biết liệu có một giải pháp quân sự nào cho chiến sự tại miền Nam Việt Nam?

- Không. Bởi vì như cô biết đấy, "Dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một". Người Mỹ đã vô cớ gây chiến tranh. Cô cũng biết rằng, như trên các mặt báo đã đưa, nếu chiến tranh càng kéo dài, người Mỹ sẽ càng sa lầy và sẽ càng chuốc lấy thất bại. Chiến tranh không thể kéo dài mãi mãi được, tôi cũng vui mừng là các nhà chính trị Pháp cũng đã biết rõ điều này

- Liệu Ngài có nghĩ rằng tướng De Gaule có thể sẽ có biện pháp nào đó phân định (arbitrer) sự xung đột này?

- Không biết cô hiểu thế nào về từ phân định (arbitrer), chúng tôi đâu có phải là một đội bóng đâu (cười)

- Nhưng nếu tôi không nhầm thì ngoài Hiệp định Genève, tướng De Gaule có nói về một ý tưởng về sự thống nhất tất cả các nước ở khu vực Đông Nam Á, Ngài nghĩ sao về điều này?

- Như tôi đã nói một lần rồi, đây là một ý tưởng khá hấp dẫn. Nhưng nó còn phụ thuộc vào sự ủng hộ của từng nước, phụ thuộc vào cách chúng ta thực hiện nó nữa, đó là một câu hỏi lớn. Tôi không nói là tôi phản đối hay tán thành ý kiến này. Lấy ví dụ về HOA, có rất nhiều loại hoa: hoa trắng, hoa đỏ, hoa vàng ... có loài hoa đẹp nhưng cũng có loài không đẹp, nhưng chúng ta vẫn gọi chung là HOA .

- Thưa Ngài Chủ tịch, trong chuyến đi miền Bắc Việt Nam này chúng tôi nhận thấy rằng sự ảnh hưởng của Pháp dường như không còn tồn tại ở đây nữa, độ tuổi dưới 25 giờ đã không còn biết đến tiếng Pháp. Tôi tự hỏi là, với suy nghĩ của Ngài, liệu rằng chúng ta có thể gây dựng lại mối quan hệ này, rằng nước Pháp sẽ giữ vai trò nào đó trong mối quan hệ ... văn hóa giữ hai nước?

- Với nước Pháp nói riêng và các nước khác nói chung, chúng tôi luôn muốn có một mối quan hệ hợp tác hữu nghị về văn hóa, kinh tế ... Nhưng tôi không nghĩ rằng cô muốn nói tới sự ảnh hưởng của Pháp như họ đã từng gây sự ảnh hưởng với Việt Nam trước đây, đó là một chuyện hoàn toàn khác.

- Oui, thời kì đó đã qua rồi.

- Một mối quan hệ hữu hảo về văn hoá, kinh tế ... hay như thể thao chẳng hạn. Chúng tôi hoàn toàn hưởng ứng.

- Nếu như chiến tranh tiếp tục leo thang tại miền Nam Việt Nam trong một vài năm tới, liệu ngài có nghĩ rằng kinh tế của miền Bắc Việt Nam có thể duy trì được như bây giờ?

- Tôi chắc chắn rằng nó không những chỉ duy trì mà còn phát triển. Cô cũng thấy rằng là ở đây, chúng tôi lao động rất hăng say, cần cù, với sự hy sinh và lòng nhiệt huyết, và chủ yếu đều xuất phát từ nội lực của chúng tôi. Bên cạnh đó chúng tôi còn có sự giúp đỡ anh em từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Tất cả đều thể hiện qua những tiến bộ hàng ngày, và chắc chắn là cả trong tương lai nữa.

- Ngài có nhắc tới các nước Xã Hội Chủ Nghĩa, vậy thì sự giúp đỡ này có bắt nguồn sau những xung đột về ý thức hệ (conflit idiologique) giữa Nga và Trung Quốc?

- Không, ........ (không nghe rõ ) ........ Nhưng những sự giúp đỡ giữa các nước anh em thì vẫn tiếp diễn. và chúng rất quý giá với chúng tôi.

- Hiện có một vài tư tưởng cho rằng miền Bắc Việt Nam đang ở trong hoàn cảnh khá cô lập và trên quan điểm chính trị, khó có thể tránh khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc (thành vệ tinh của Trung Quốc). Chúng ta có thể trả lời câu hỏi này ra sao?

- JAMAIS (không bao giờ)

Chi tiết

Sòng phẳng với lịch sử không phải là kích động hận thù !

Sòng phẳng với lịch sử không phải là kích động hận thù !

 -  Xin trân trọng giới thiệu bài viết của bà Nguyễn Thị Bình - nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 của quân và dân tộc

Chiến tranh biên giới phía Bắc là một câu chuyện buồn trong lịch sử, một câu chuyện buồn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Dẫu vậy, nó vẫn là lịch sử. Và đã là lịch sử thì phải nhìn nhận nó với sự thật đầy đủ.

Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17/2/1979, ngày mà cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra; ngày mà hàng ngàn con em chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Nhắc để dân ta nhớ, biết ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương Tổ quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Không những dân ta cần hiểu, mà nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân các nước cũng phải hiểu đúng: đâu là sự thật, đâu là lẽ phải và coi đó là bài học. Không thể quên lãng nó.

Nhiều người dân Trung Quốc đã hiểu sai cơ bản về cuộc chiến tranh biên giới đó. Nhưng tính chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc chiến đó là sự thật không thể chối cãi.

Có thể nào nghĩ rằng Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt kéo dài 30 năm, đang tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh và đứng trước vô vàn khó khăn lại có thể khiêu khích Trung Quốc, một nước lớn, một nước xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ và giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh cứu nước vừa qua?

Thực tế là quân dân Việt Nam khi đó đã phải chống lại một cuộc chiến tranh biên giới to lớn để bảo vệ biên cương Tổ quốc.


Theo tôi, không chỉ đưa vào sách giáo khoa những sự thật lịch sử về Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay cả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc cũng cần được nhắc đến đầy đủ. Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù. Chúng ta biết sự thật, để hiểu đâu là lẽ phải và để rút ra bài học cho các mối quan hệ quốc tế trong bối cảnh phức tạp ngày nay. Tôi ủng hộ con đường ngoại giao khôn ngoan, mềm mỏng, tôn trọng các nguyên tắc quốc tế.

Kinh nghiệm trong đấu tranh, né tránh hay im lặng đều không có lợi, vì như vậy chúng ta không làm rõ được sự thật, phải trái, đúng sai, có khi còn khuyến khích đối phương, khiến họ cho rằng ta yếu thế và ngày càng lấn tới. Tuy nhiên không bình tĩnh cân nhắc trong ứng xử cũng sẽ khiến cho tình hình thêm phức tạp, không có lợi cho sự nghiệp.

Vậy bài học rút ra từ quá khứ mất mát của chúng ta là gì đây? Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu.

Xưa đến nay, ta rất chú trọng xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Trung Quốc dù trong lịch sử hai nước đã có bao lần xung đột.

Trong tình hình hiện nay, chúng ta cần một môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước và cần những bạn bè tốt để hợp tác nên Việt Nam càng coi trọng quan hệ hữu nghị với Trung Quốc – một nước lớn đang có những bước phát triển thần kỳ.

Nhưng như bất cứ dân tộc nào, chủ quyền quốc gia đối với Việt Nam là thiêng liêng và chúng ta sẽ kiên quyết bảo vệ bằng mọi giá, đồng thời chúng ta chủ trương mọi tranh chấp lãnh thổ được giải quyết bằng phương pháp hòa bình, có sự tôn trọng lẫn nhau.

Trong đấu tranh, chúng ta đã làm đúng theo lời dạy của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn giữ vững lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, nhưng vẫn linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược.

Tôi tin vào sức mạnh của chính nghĩa, của lẽ phải, tin vào sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân và tin ở sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới.

Ta cần hành động theo tinh thần đó.

Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng sẽ khó để bảo vệ chủ quyền nếu đất nước không có nội lực, không có nền tảng vững chắc về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng với đoàn kết dân tộc mạnh mẽ. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng ta cần phấn đấu.
Nguồn : Báo Giáo dục Việt Nam

#DDC
Chi tiết

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971 - Bài 1: Sự ra đời của những toán biệt kích

Năm 1959, sau khi đã thanh toán xong các giáo phái chống đối ở miền Nam Việt Nam, đồng thời ban hành Luật 10/59, “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, chính quyền Diệm, Nhu dưới sự gợi ý của người Mỹ, đã xây dựng hoàn chỉnh một cơ quan đặc biệt, được thành lập từ năm 1956, núp dưới cái tên rất hiền lành: “Sở Khai thác địa hình”. Thực chất, đây là một đơn vị tình báo tác chiến trực thuộc Phủ Tổng thống, do đại tá Lê Quang Tung làm chỉ huy trưởng.

Sở Khai thác địa hình có một phòng được gọi là Phòng 45 hay Phòng E, chịu trách nhiệm thu thập tin tức về miền Bắc thông qua những người di cư hoặc những kẻ bỏ trốn vào miền Nam sau năm 1954. Ðến năm 1960, hoạt động tình báo được đặc biệt chú trọng hơn nữa, nhất là sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ðể yểm trợ cho công tác bí mật này, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA), một bộ phận gọi là Combined Studies (Nghiên cứu tổng hợp) thuộc Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã hỗ trợ Sở Khai thác địa hình bằng việc gửi chuyên viên huấn luyện những bài học tình báo căn bản, cung cấp trang thiết bị, tài chính để Phòng 45 hoạt động.

Đầu năm 1963, Sở Khai thác địa hình đổi tên thành Bộ Tư lệnh Lực lượng đặc biệt với hai đơn vị là Liên đoàn 77 và Liên đoàn 31 - trong đó Phòng 45 biến thành Sở Khai thác. Song song với sự cải tổ ấy, Bộ Chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV) cũng cho ra đời cơ quan MACV - SOG (Studies and Observations Group - Nhóm cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt). Ðến năm 1965, Sở Khai thác đổi tên thành Sở Kỹ thuật - rồi nâng lên thành Nha Kỹ thuật mà mục đích không ngoài việc huấn luyện biệt kích để tung ra miền Bắc.

Trong Nha Kỹ thuật, bộ phận chịu trách nhiệm chính trong việc tung biệt kích ra Bắc là Ðoàn 68. Nó tổ chức và chỉ đạo các toán tình báo hoạt động dài hạn tại miền Bắc bằng cách thiết lập những căn cứ cố định hoặc di động, móc nối dân địa phương để thu thập thông tin tình báo, theo dõi và trinh sát các mục tiêu trọng yếu, các tuyến đường vận chuyển vũ khí, trang thiết bị quân sự nằm dọc theo biên giới Việt Nam - Trung Quốc thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Lai Châu, các khu vực là đầu mối của việc chuyển quân vào Nam ở các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình rồi báo cáo về Sài Gòn để không quân Mỹ tung ra những cuộc ném bom đánh phá, ngăn chặn.

TOÁN BIỆT KÍCH HADLEY

Trong chiến tranh chống Mỹ, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn trọng điểm, bởi quốc lộ 8 bắt nguồn từ Ngã ba Bãi Vọt (nay là TX. Hồng Lĩnh) qua biên giới Việt - Lào rồi xuyên dãy Trường Sơn, nối liền với các nhánh đường mòn Hồ Chí Minh, tạo ra một hành lang tương đối thuận lợi và an toàn cho bộ đội ta chi viện chiến trường miền Nam. Ðể ngăn chặn, người Mỹ ngoài việc sử dụng sức mạnh không quân còn tiến hành một loại chiến tranh khác: “Chiến tranh gián điệp”.

Với đội quân biệt kích hàng ngàn người, chia thành gần 100 toán, từ năm 1960 đến 1968, CIA và Nha Kỹ thuật đã tung ra miền Bắc 54 toán với tổng cộng 342 biệt kích. Trong đó, hàng chục toán xâm nhập bằng đường biển, đường không vào địa bàn Hà Tĩnh từ năm 1961 đến 1968 với mục tiêu là các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Hương Sơn, Hương Khê…

Cuối năm 1966, trong số hàng trăm tên biệt kích ở Trung tâm huấn luyện biệt kích Long Thành, tỉnh Biên Hòa (nay là Ðồng Nai), một nhóm 15 tên được Nha Kỹ thuật chọn riêng, đặt bí danh là “Toán T”. Khi Lê Văn Ngung lên làm trưởng toán, nội bộ có sự mâu thuẫn, một số thành viên không tán thành nên Nha Kỹ thuật tách từ “Toán T” ra 4 người để lập thêm một toán nữa, gọi là “Toán T2” nhằm bổ sung cho “Toán T” khi cần thiết. Vì vậy, “Toán T” chỉ còn 11 người gồm Lê Văn Ngung - toán trưởng; Nguyễn Văn Thương - toán phó; Nguyễn Thế Khoa và Phạm Viết Phúc - điện báo viên cùng 7 người khác là Tùng, Hinh, Lao, Khoan, Tinh, Quy, Trọng.

Khóa huấn luyện “Toán T” do đại úy Pred Caristo, cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy, phụ trách giảng dạy là đại úy tên Dung, trong đó các biệt kích học cách xâm nhập bằng đường không, cách đặt thiết bị đo chấn động trên đường giao thông để đếm lượng xe qua lại, cách mưu sinh thoát hiểm, cách móc nối dân địa phương, cách khai thác và thu thập thông tin, sử dụng điện đài, chất nổ, sử dụng những loại vũ khí của những nước xã hội chủ nghĩa, cách ăn mặc, nói chuyện sao cho giống như những người dân, bộ đội miền Bắc. Kết thúc khóa học, “Toán T” được Pred Caristo đặt cho bí danh mới là “Hadley”. Các thành viên trong toán lần lượt mang tên theo thứ tự: Hadley 1, Hadley 2…, cho đến Hadley 11.

XÂM NHẬP MIỀN BẮC

Chiều 26-1-1967, dưới sự hộ tống của cố vấn Mỹ Pred Caristo và đại úy Dung, toán Hadley được xe quân sự đưa ra sân bay Tân Sơn Nhất rồi lên chiếc máy bay vận tải C.47, bay đến sân bay Nakhon Phanom, đông bắc Thái Lan. Đại úy Nguyễn Văn Vinh thuộc Nha Kỹ thuật đã chờ sẵn tại đây. Vài phút sau, chúng chuyển sang máy bay trực thăng H34 không số hiệu, không sơn cờ nước nào, do phi công người Đài Loan điều khiển. Sau ngày 30-4-1975, hồ sơ về toán Hadley còn lưu trữ tại Nha Kỹ thuật Sài Gòn cho thấy: 17 giờ ngày 26-1-1967, chiếc trực thăng chở toán Hadley cất cánh từ sân bay Nakhon Phanom, có 1 chiếc khác kèm theo, cả 2 bay ở độ cao dưới 1.000m. Hai máy bay vừa qua vùng biên giới Lào, Việt thì có tiếng súng dưới đất bắn lên. Cho rằng đây chỉ là những loạt đạn hú họa của bộ đội Bắc Việt hoặc của lực lượng Cách mạng Lào (Pathet Lào) mỗi khi thấy máy bay bay thấp, nhưng để đánh lạc hướng, viên phi công lái chiếc trực thăng thứ hai lập tức lượn vòng lại trong lúc chiếc thứ nhất vẫn giữ nguyên lộ trình. Lúc vừa đến tọa độ đã định, chiếc thứ nhất hạ độ cao rất nhanh rồi sà xuống một triền đồi mọc đầy lau sậy. Khi thấy những tên biệt kích cuối cùng trong toán Hadley đã nhảy xuống, viên phi công vội vã kéo mạnh cần lái. Chiếc trực thăng bốc lên trong tư thế gần như đứng thẳng. Lúc trực thăng đã lên cao, Nguyễn Văn Vinh nhìn ra khung cửa kính, tim như ngừng đập vì bên kia đồi, nơi vừa thả toán biệt kích là một con đường đất. Khi thông qua kế hoạch hành quân, trên tấm bản đồ không ảnh chẳng hề có con đường này. Như vậy, họ đã thả toán biệt kích xuống nhầm chỗ! Chiếc thứ hai bay sau cũng phát hiện sự nhầm lẫn đó nên vội báo về Nha Kỹ thuật. Cố vấn Pred Caristo yêu cầu chiếc trực thăng thả toán biệt kích phải quay trở lại, đón toàn bộ lên. Khi trực thăng còn cách mặt đất khoảng 1m, Nguyễn Văn Vinh cùng phi công phụ vội vã nhảy xuống, vừa chạy vừa gọi toán biệt kích. Họ kêu tên từng người nhưng không ai trả lời, tất cả đã biến mất vào rừng. Trở lại Nakhon Phanom, đại úy Vinh ngồi cạnh những thùng lương thực để sẵn sàng tiếp tế cho toán biệt kích. 48 giờ trôi qua, toán Hadley vẫn biệt tăm. Quay về sân bay Đà Nẵng, trong hai ngày kế tiếp, Nguyễn Văn Vinh đi theo chiếc khu trục AD-1 do phi công Sài Gòn cầm lái, 3 lần bay qua điểm hẹn với toán Hadley, hy vọng thấy tấm panô báo nguy hoặc tín hiệu an toàn của nhóm biệt kích song tất cả chỉ là rừng xanh núi thẳm mịt mù.

Thời điểm toán Hadley xâm nhập Hà Tĩnh thì Tết Nguyên đán Ðinh Mùi cũng đang đến gần. Trước đó, Nha Kỹ thuật cho rằng càng gần Tết thì việc bố phòng của ta càng lơi lỏng, ít chú ý tới việc tuần tra. Trong chuyến xâm nhập này, nhiệm vụ của toán Hadley là thu thập tin tức về tuyến đường vận chuyển vũ khí, đạn dược vào Nam, địa điểm đóng quân của bộ đội, kho tàng, bến bãi, cầu phà trên quốc lộ số 8 từ Hà Tĩnh nối với đường 15, đường 81, 12 và 121 của Lào; các trận địa pháo cao xạ, tên lửa phòng không của ta dọc tuyến biên giới; nắm tình hình đời sống kinh tế, xã hội, của cư dân địa phương. Ngoài ra, Hadley còn phải theo dõi tuyến giao thông đường thủy trên sông Ngàn Phố…

Sau khi đổ bộ 10 phút, cả toán di chuyển theo hướng tây bắc. Ði được khoảng 500m, toán trưởng Lê Văn Ngung ra lệnh dừng lại nghỉ ngơi. Mờ sáng, lúc vừa tỉnh dậy, chuẩn bị đến địa điểm theo tọa độ mà Nha kỹ thuật đã chỉ định, nhóm biệt kích bỗng nghe tiếng chó sủa, tiếng người nói chuyện từ xa vọng lại, mỗi lúc một gần hơn. Hốt hoảng, cả bọn cắm đầu chạy vì lúc còn ở trên trực thăng, đại úy Vinh đã phổ biến rằng khu vực mà toán nhảy xuống, trong bán kính 3km không hề có thôn xóm, làng mạc.

Chạy được một lát, khi không còn nghe thấy tiếng người, tiếng chó chúng mới dám dừng lại. Lúc bị bắt, Tùng, một biệt kích khai: “Chúng tôi chọn địa điểm nằm trên một khe suối hiểm trở làm chỗ đóng quân nhưng không dám dựng ăng ten để lên máy báo về trung tâm vì sợ bị lộ”…
___________
[VŨ CAO/baobariavungtau - Theo tư liệu của Thượng tá Nguyễn Khánh Toàn, cựu cán bộ trinh sát chuyên án “K50”, nguyên Phó trưởng phòng A41 - Bộ Công an]

Ảnh: Toán biệt kích Hadley nhảy từ trực thăng không cờ hiệu, không số hiệu xuống Hà Tĩnh.

#TNT


Chi tiết

40 năm chiến tranh biên giới Tây Nam


Nguyên nhân và hậu quả của cuộc chiến đã quá rõ ràng , Trung Quốc, Mỹ liên thủ muốn dùng khơ me đỏ để ép Việt Nam bước vào một cuộc chiến ủy nhiệm mới.

Lực lượng khơ me đỏ với sự cuồng bạo của mình có thể sánh với bạo quân Thạch Hổ khi xưa, chúng không chỉ tàn sát người dân nước mình mà còn xua quân qua biên giới tàn sát đồng bào chúng ta, trong khi Việt Nam liên tục nhúng nhường vì không muốn tiếp tục một cuộc chiến mới sau hàng chục năm bom đạn thì chúng càng hung hăn lấn tới, lời kêu gọi giúp đỡ tới Liên Hiệp Quốc chỉ được đáp lại bằng sự im lặng

Và rồi máu đổ quá nhiều, hàng ngàn người dân khắp biên giới Tây Nam bị giết hại dã man, các đồn biên giới của ta tử thủ đến người lính cuối cùng, có đồn biết không cầm cự được nữa gọi pháo san bằng mọi thứ quyết đồng quy vu tận cùng địch.

Đến khi Việt Nam quá ngưỡng chịu đựng đưa quân sang phản công tiêu diệt tận gọn Khơ Me Đỏ thì Liên Hiệp Quốc phản ứng thế nào ? Chúng kêu gọi cấm vận Việt Nam với lý do....xâm lược Campuchia, vâng đúng như vậy những cường quốc ngày nay đang mở mồm tự xưng mình dân chủ văn minh đã giương cờ bảo vệ chính quyền khát máu bằng một hành động vô cùng khốn nạn, chúng muốn bóp chết Việt Nam sau khi chúng đã thua một cuộc chiến vũ lực. Để rồi sau này những tội ác của Khơ Me Đỏ phanh phui, chúng chỉ im lặng và không hề nói một câu xin lỗi hay bồi thường nào cho hàng chục năm Việt Nam bị cấm vận, chỉ duy nhất một lần một ngoại trưởng châu âu, đã phải kéo riêng bộ trường ngoại giao Việt Nam ra một phòng riêng và nói xin lỗi, " chúng tôi xin lỗi vì những năm tháng qua nhưng thật sự chúng tôi không thể công khai xin lỗi các vị "

Vị bộ trưởng chỉ biết nắm tay nuốt giận khi nghe những lời như vậy, chúng ta muốn hòa bình, chúng ta muốn ăn no, được giáo dục , được sống hạnh phúc đơn giản vậy thôi. Thế nhưng để đạt được điều đó không hề dễ dàng và phải trả bằng núi thây biển máu, bởi ngoài kia những kẻ nắm trong tay cường quyền nhưng mồm lúc nào cũng từ bi như thiên thần nào để chúng ta dễ dàng được như ý chỉ vì mục đích chính trị giữ vững ngai vàng siêu cường số 1 của chúng.

40 năm trôi qua, hãy trân trọng những  phút giây hòa bình mà chúng ta đang hít thở, bởi để có nó, chúng ta đã trả cái giá bằng thanh xuân, máu của cha , của ông chúng ta trong suốt 100 năm, bằng những thứ mà những người trẻ chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi.

Vinh quang cho Việt Nam.
Chi tiết

Cuộc đời Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ đã trở thành huyền thoại

Cuộc đời Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Thứ đã trở thành huyền thoại, thành tượng đài của lòng yêu nước, đức hy sinh. Mẹ có 9 người con trai, 1 một con rể, 2 cháu ngoại hy sinh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc.

Mẹ Nguyễn Thị Thứ sinh năm 1904 tại thôn Thanh Quýt, xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 18 tuổi, Mẹ lập gia đình với ông Lê Tự Trị. Năm 20 tuổi, Mẹ sinh con gái đầu lòng là chị Lê Thị Trị (còn gọi là Hai Trị).

Thời gian trôi qua, mẹ có đến 12 người con, gồm 1 con gái và 11 con trai. Cuộc đời mẹ Thứ nuôi con trong những năm tháng lận đận, đói nghèo nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, mẹ lần lượt động viên 9 người con ra chiến trường. Người con gái lớn cùng Mẹ bám trụ với xóm làng, vừa sản xuất, vừa đào hầm nuôi giấu cán bộ, du kích đánh giặc giữ làng.
Không có nỗi đau nào có thể đong đếm được khi 9 người con trai, 2 cháu ngoại và 1 con rể của Mẹ Thứ tiếp chân nhau ra trận rồi lần lượt hy sinh trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc.

Mất mát đầu tiên, ngày 18/6/1948, người con trai thứ hai của Mẹ, chiến sĩ giao liên Lê Tự Xuyến bị giặc Pháp bắn ngay tại đầu làng khi đang làm nhiệm vụ. Nước mắt chưa vơi thì tin dữ lại đến, ngày 5/10/1948, người con trai Lê Tự Hàn Anh hy sinh khi làm nhiệm vụ tải thương, 10 ngày sau nữa, người con Lê Tự Hàn Em ngã xuống trong một trận chống càn. Chỉ trong 4 tháng, mẹ mất ba người con. Con trai Lê Tự Lem vừa tròn 20 tuổi, tham gia bộ đội huyện, đã hy sinh trong lúc chiến đấu với giặc vào đầu tháng 4/1954.

Nấm mồ này cỏ chưa kịp lên xanh, mẹ lại phải đắp thêm nấm mộ khác. Mỗi lần nghe tin một người con hi sinh, Mẹ cắn răng khóc thầm. Ðau thương không làm Mẹ gục ngã, Mẹ tiếp tục động viên những người con khác khác lên đường. Các anh rời nhà ra đi, nhiều đêm dài sau đó mẹ trằn trọc, thức trắng âu lo.

Ở hậu phương, từ chống thực dân Pháp qua đánh đế quốc Mỹ, trong khu vườn của Mẹ luôn có 5 căn hầm bí mật dưới bụi tre, gốc mít, nơi Mẹ và con gái đầu Lê Thị Trị nuôi giấu hàng nghìn lượt cán bộ, bộ đội, du kích. Bao đêm dài, Mẹ thao thức canh chừng nhiều cuộc họp quan trọng của cán bộ, chiến sĩ ngay dưới những căn hầm bí mật trong khu vườn nhà. Trên miệng hầm, Mẹ trồng thật nhiều cỏ, vừa để ngụy trang, vừa cho bò ăn. Lúc không có địch, hai mẹ con mở hé cửa hầm cho người ở dưới dễ thở, hễ có động lại giả vờ ra dắt bò, cắt cỏ để chỉnh sửa, ngụy trang lại miệng hầm.

Tháng 9/1966, con trai Mẹ là anh Lê Tự Nự hy sinh. Năm 1972, Mẹ lại khóc tiễn đưa hai con là Lê Tự Mười và Lê Tự Trịnh. Năm 1974, đến người con Lê Tự Thịnh, Ðại đội trưởng bộ đội ở Duy Xuyên ngã xuống trong một trận công đồn. Chưa hết, người con trai cả của Mẹ, Lê Tự Chuyển, chiến sĩ biệt động Sài Gòn hy sinh vào đúng 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, ngay trên cầu Rạch Chiếc ở cửa ngõ vào Thành phố, chỉ trước vài giờ khúc khải hoàn ca chiến thắng vang dậy, non sông thu về một mối.
Ba mươi năm kháng chiến trường kỳ, bao đau thương mất mát tới tấp dội đến gia đình mẹ với “chín đứa con ra đi không một đứa trở về”.

Không những thế, người con rể Ngô Tường tham gia cách mạng từ thời chống Pháp, bị bắt năm 1956. Tuy bị tra tấn dã man nhưng ông không khai báo nửa lời. Bị đánh đập đến kiệt sức, thi thể ông được chôn tại bãi cát Cẩm Hà (Hội An).

Cháu ngoại của Mẹ là Ngô Thị Cúc và Ngô Thị Điểu gia nhập lực lượng cách mạng từ rất sớm. Năm 1973, chị Ngô Thị Cúc hy sinh trong một chuyến công tác vào vùng địch hậu. Tháng 8/ 1970, chị Ngô Thị Điểu bị lính Mỹ đưa lên máy bay ra tàu thủy để tra hỏi, nhưng chưa tra hỏi được gì thì chị đã qua đời.

Ngày 17/12/1994, Mẹ Nguyễn Thị Thứ đã được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trao tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Ngày 27/07/2009, tỉnh Quảng Nam đã khởi công xây dựng Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng tại Núi Cấm, thuộc thôn Phú Thạnh, xã Tam Phú, TP Tam Kỳ - Quảng Nam lấy nguyên mẫu hình tượng của Mẹ Nguyễn Thị Thứ. Từ tháng 12/2011, tại thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn có con đường mang tên Mẹ Thứ.

Mẹ Nguyễn Thị Thứ đã qua đời hồi 1 giờ 40 phút ngày 10/12/2010, thượng thọ 106 tuổi. Mẹ được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn.

Người Mẹ Việt Nam anh hùng huyền thoại tuy không còn trên cõi đời này nhưng tên tuổi Mẹ mãi mãi ngời sáng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
--------       -------
HN (tổng hợp)
Báo Nhân dân/Bảo tàng Lịch sử Quân sự

Ảnh : Mẹ Nguyễn Thị Thứ đang thiếp đi dưới di ảnh con trai



#CL
Chi tiết

11 lần "đi lạc" của bộ đội Việt Nam sang đất Thái Lan

11 lần "đi lạc" của bộ đội Việt Nam sang đất Thái Lan
(Đi lạc vì không có định vị vệ tinh nhé, Việt Nam yêu hòa bình, ghét chiến tranh, ai lại tấn công anh bạn Thái Lan làm gì)
-------------------------------------------------------------------
Trong giai đoạn 1979-1989, Việt Nam từng nhiều đưa quân sang đất Thái Lan, do chính quyền nước này nuôi dưỡng và lập căn cứ cho tàn quân Khmer Đỏ đánh phá, quấy rối chính quyền mới của Campuchia.
- Lần 1 (1979)
Mở cuộc tấn công lớn vào vị trí trú ẩn của quân Khmer Đỏ tại các vùng núi biên giới. Xe tăng Việt Nam có lạc đường đi sâu một tí, khiến chính quyền Thái Lan suýt ra lệnh tử thủ Bangkok.
- Lần 2 (1980)
Mở ba đợt tấn công, đấu pháo khiến 72 bộ đội Việt Nam hy sinh, phía Thái Lan bị bắn hạ hai máy bay trực thăng, 130 lính quân đội Thái Lan và hàng trăm lính Khmer Đỏ tử trận. Bộ đội Việt Nam ở tạm trong hai ngôi làng trên đất Thái Lan, trả lại lúc nào không rõ, không trả thì thôi.
- Lần 3 (1981)
Theo tường trình, khoảng 15-30 bộ đội Việt Nam đã nổ súng vào đội tuần tra Thái Lan khi ở sâu khoảng 800m trong đất Thái, khiến hai lính Thái thiệt mạng và bị thương, phía Việt Nam không có thương vong.
- Lần 4 (đầu tháng 3/1982)
Một loạt xô xát nổ ra dọc biên giới, đỉnh cao là sự kiện hơn 300 bộ đội Việt Nam vượt biên giới và tiêu diệt lính biên phòng Thái Lan, suýt bắn hạ một máy bay trinh sát của Thái.
- Lần 5 (1983)
Đây là lần tấn công quy mô lớn nhất để truy quét căn cứ Khmer Đỏ tại Thái Lan.
+ 31/1-1/2: Dưới sự yểm trợ mạnh của pháo binh và không quân, 4.000 quân Việt Nam cùng xe thiết giáp mở cuộc tấn công lớn vào Nong Chan, một trong những trại tị nạn lớn nhất ở biên giới Thái Lan và phá hủy nó. Giao tranh diễn ra quanh trại giữa bộ đội Việt Nam đóng tại Campuchia với khoảng 2.000 quân Khmer Đỏ.
Cùng lúc đó, các cuộc pháo kích tiếp tục được phía Việt Nam duy trì. Ít nhất 50 quả đạn pháo rơi vào đất Thái Lan, khiến một nông dân 66 tuổi thiệt mạng, gây hư hại một số ngôi nhà và một ngôi chùa gần đó. 24.000 dân tị nạn bỏ chạy, không rõ thương vong. Quân Khmer Đỏ rút chạy sau 36 giờ giao tranh. Bệnh viện Khao-I-Dang nhận được 100 người dân bị thương.
+ Đến tháng 3/1983, các đơn vị Việt Nam đụng độ với quân đội Thái Lan trong vài ngày, đẩy Bangkok vào tình trạng phòng thủ. Đạn pháo binh và xe tăng khiến 30 thường dân thiệt mạng, làm bị thương khoảng 300 người. Khoảng 22.000 dân Cambodia chạy sang đất Thái tị nạn. Đầu tháng 4, thêm một máy bay chiến đấu Thái bị bắn rơi.
+ Ngày 3/4: Khoảng 100 quân Việt Nam xâm nhập Thái Lan, đánh giáp lá cà với lực lượng biên phòng, giết 5 và làm bị thương 8 lính Thái Lan.
+ Ngày 27/12: Việt Nam đưa bộ binh cùng xe tăng và thiết giáp tới biên giới phía đông Thái Lan
+ Trong tháng 12: Việt Nam liên tục giao tranh trên bộ với Thái Lan, trong khi tàu chiến Việt Nam bắn vào các tàu cá Thái Lan hoạt động cách bờ biển Việt Nam khoảng 30km, bắt giữ 5 thuyền đánh cá cùng 130 ngư dân.
- Lần 6 (1984)
+ 25/3 tới đầu tháng 4: Việt Nam mở cuộc tấn công lớn thứ ba trong 5 năm, chiến dịch kéo dài 12 ngày trong đất Thái Lan với xe tăng T-54, pháo 130mm yểm trợ 400-600 quân để truy quét quân Khmer Đỏ. Pháo binh và không quân Thái được điều tới đáp trả. Kết quả là hàng chục thương vong cho cả hai bên, một máy bay Thái Lan bị bắn rơi.
+ Tháng 4 đến tháng 11: Việt Nam tiếp tục tấn công lẻ tẻ, khiến 2 binh sĩ biên phòng Thái thiệt mạng, 25 người bị thương và 5 người mất tích trong cuộc chiến kiểm soát Đồi 424 ở Traveng, cách Bangkok 290 km về phía đông bắc. Sau đó Việt Nam rút quân.
+ Ngày 25/12: Quân nổi dậy trú trong trại tị nạn Nong Samet bị tấn công lúc bình minh. Toàn bộ Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 với hơn 4.000 người, 18 khẩu pháo 105mm và 130mm, 27 xe tăng T-54 và xe thiết giáp tham gia vào cuộc tấn công này.
Ước tính có khoảng 55 tàn quân Khmer Đỏ và 63 dân thường Thái Lan thiệt mạng.
+Ngày 31/12: Bộ đội Việt Nam phục kích hai đơn vị tuần tra biên giới bán vũ trang của Thái Lan tại tỉnh Buriram, làm bị thương 6 người và cầm chân họ ở đó trong hơn 24 giờ bằng vũ khí hạng nhẹ.
- Lần 7 (1985)
+ 5.000 đến 6.000 quân Việt Nam được hỗ trợ bởi pháo binh, 15 xe tăng T-54 và 5 xe thiết giáp tấn công Ampil. Lực lượng Việt Nam được hỗ trợ bởi 400 đến 500 binh sĩ Quân đội Nhân dân Cách mạng Campuchia.
Cuộc tấn công mở đầu bằng việc pháo kích dữ dội bằng khoảng 7.000-20.000 quả đạn pháo trong vòng 24 giờ, trại tị nạn Nong Chan và Nong Samet cùng bị pháo kích. Quân Việt Nam chiếm được trại Ampil sau vài giờ giao tranh, loại khỏi vòng chiến đấu 6 hoặc 7 xe tăng Khmer Đỏ, nhưng cũng thông báo hy sinh 103 bộ đội.
Một máy bay cường kích A-37 của Thái Lan bị bắn rơi ở tỉnh Buriram, khiến một trong hai thành viên phi hành đoàn thiệt mạng. Trong cuộc tấn công ở Ampil, quân đội Thái Lan có 11 người chết và 19 người bị thương.
+ Ngày 7/3: Binh sĩ Thái Lan được hỗ trợ bởi pháo binh và máy bay A-37 chiếm lại ba ngọn đồi bị Việt Nam kiểm soát từ nhiều ngày trước, khiến hàng trăm bộ đội Việt Nam phải lui về biên giới. Tuy nhiên, Việt Nam phản công tại điểm cao 361 trên đất Thái Lan. Kết quả trận đánh không rõ ràng. 14 binh sĩ Thái và 15 dân thường thiệt mạng.
+ Ngày 26/5: Bộ đội Việt Nam tiến vào tỉnh Ubon Ratchathani từ phía bắc Campuchia, tiêu diệt 5 lính Thái Lan.
+ Ngày 13/6: Quân đội Thái Lan chiến đấu với 400 bộ đội Việt Nam trên đất Thái Lan.
- Lần 8 (1986)
+ Ngày 23/1: Lực lượng Việt Nam từ Campuchia pháo kích vị trí của thủy quân lục chiến Thái Lan tại tiền đồn ở Haad Lek, một ngôi làng ở cực nam biên giới Thái Lan.
+ Ngày 7/12: Quân đội Việt Nam yêu cầu Thái Lan dừng việc tiếp tục hỗ trợ quân Khmer Đỏ. Việt Nam cũng thực hiện chương trình phát thanh bằng loa và bắn tờ rơi gần huyện Aranyaprathet, kêu gọi Thái Lan không chứa chấp tàn quân Khmer Đỏ, cảnh cáo nước này sẽ chịu "hậu quả" nếu tiếp tục.
- Lần 9 (1987)
+ Ngày 25/3: Tổng tư lệnh quân đội Thái Lan Chavalit tuyên bố sẽ tấn công tổng lực bất cứ đơn vị Việt Nam nào xâm nhập quá phạm vi 5 km vào lãnh thổ Thái Lan.
Một tháng sau tuyên bố đó, lực lượng Việt Nam và Campuchia đóng quân trên toàn bộ 800 km biên giới Thái Lan - Campuchia. Quân đội Thái Lan cố gắng đánh bật bộ binh Việt Nam khỏi Chong Bok, vùng miền núi gần biên giới Thái Lan, Lào và Campuchia. Hai bên đều chịu thương vong tới hàng chục người.
- Lần 10 (1988)
+ Ngày 22/4: Quân đội Việt Nam vượt qua biên giới và phục kích một đại đội biên phòng Thái Lan, giết chết 4 binh sĩ và làm bị thương một người khác. Đại đội lính biên phòng Thái Lan khi đó đang tuần tra một điểm chiến lược gần biên giới ở tỉnh Buriram, cách thủ đô Bangkok gần 280km. Bộ đội Việt Nam ở sâu hơn 450 mét bên trong lãnh thổ Thái Lan khi tổ chức tấn công.
+ Ngày 4/8: Lãnh đạo đảng Dân tộc Thái, tướng Chatichai Choonhavan, trở thành Thủ tướng thứ 17 của nước này và hứa hẹn "biến chiến trường thành thị trường".
- Lần 11 (1989)
+ Ngày 26/4: Quân chính phủ Campuchia mở cuộc tấn công tại Ta Phraya khiến 38 người thiệt mạng và 42 người bị thương.
Quân đội Việt Nam cũng bắn 4 quả đạn pháo vào Trại 2, trại tị nạn lớn nhất với hơn 198.000 dân Campuchia và là nơi trú ngụ của các lực lượng trung thành với Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhân dân Khmer, một nhóm du kích chống Cộng.
Đến cuối năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, chính thức khép lại những lần đi lạc và 10 năm kinh hoàng của người Thái.
- Quán bia tổng hợp -
* Ảnh màu: Bộ đội Việt Nam ở biên giới Campuchia - Thái Lan.
* Ảnh đen trắng: Bộ đội Việt Nam và lính Campuchia.


Chi tiết

UFO TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

UFO TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Ngày 15 tháng 6 năm 1968, gần khu vực phi quân sự (DMZ).

Vào đêm đó, Trung úy Pete Snyder và thủy thủ đoàn tàu tuần tra PCF-12 đang bắt đầu chuyến tuần tra định kỳ gần Cửa Việt (Quảng Trị). Khoảng 00:30, Snyder nhận được thông báo "điên rồ" từ tàu tuần tra khác gần đó, PCF-19, thuyền trưởng là Trung úy Davis. Tàu PCF-19 báo rằng họ đang bị tấn công bởi các vật thể bay không xác định, có thể là trực thăng của địch.

Tàu của Trung úy Snyder tăng tốc tối đa về phía vị trí đó và khi đến gần hơn, Snyder và thủy thủ đoàn nhìn thấy hai UFO, được bao phủ bởi một loại ánh sáng kỳ lạ phía trên tàu tuần tra của Davis.

Bất ngờ, một tia sáng lóe lên, PCF-19 bị thổi bay thành từng mảnh trong một vụ nổ lớn. Ngay sau đó, các UFO bay ra biển và biến mất.

[Trích từ phim tài liệu "Hangar 1: The UFO Files" (2014), S02E01]
https://www.springfieldspringfield.co.uk/view_episode_scripts.php?tv-show=hangar-1-the-ufo-files-2014&episode=s02e01

Theo phim này, chính sách của quân đội Mỹ khi phát hiện UFO đã thay đổi: từ "bắn hạ" sang "không giao chiến". Các UFO được ghi nhận là thường xuyên xuất hiện ở nơi có chiến sự ác liệt, có vẻ tổn thất nhân mạng cao đã khiến họ tò mò: theo dõi cách mà cái chủng tộc kỳ lạ kia đối xử với nhau.

- Muitenbac777 -
Chi tiết

Xương Giang, trận công thành đỉnh cao của Đại Việt

Xương Giang, trận công thành đỉnh cao của Đại Việt
Thành Xương Giang nằm ở đông bắc thành phố Bắc Giang hiện nay, thuộc địa phận các thôn Nam Giang, Đông Giang thuộc xã Xương Giang. Thành này do quân Minh đắp sau khi chiếm được nước Đại Ngu (1407).
Thành được xây bằng đất, các dấu tích còn lại cho biết thành hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông - Tây đo được 600m, chiều rộng theo hướng Bắc - Nam 450m, diện tích 27ha, tường đắp đất cao dầy, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông về phía Tây.Thành này có vị trí rất quan trọng, nằm trên con đường ngàn dặm, có các dịch trạm nối suốt từ Quảng Tây với Đông Quan.
Quân Lam Sơn lúc này sau 10 năm khởi nghĩa đã làm chủ được cả vùng Thanh Hóa đến Thuận Hóa rộng lớn quyết cùng một trận quyết định thắng thua với quân Minh, mà Xương Giang là cứ điểm quan trọng cuối cùng.
Thành này có 5 vạn quân phòng giữ trong đó có 2000 quân hỏa mai, lương thảo dồi dào thành cao hào sâu nên vây hãm một năm trời chưa hạ được thành.
Nghe tin quân tiếp viện nhà Minh đang tới, Lê Lợi nhanh chống giao nhiệm vụ công thành này được cho Trần Nguyên Hãn đến hỗ trợ Lê Sát và Nguyễn Lý bằng mọi giá phải hạ được thành.Huy động đại quân sử dụng hỏa lực cực mạnh gồm đại pháo, tên lửa, nỏ lớn cùng các khí cụ công thành đồng thời kết hợp đào hầm vào thành. Sau 1 giờ đấu pháo ác liệt quân Lam Sơn đã xông được vào thành chiếm được 1/2. Tướng thủ thành là Lý Nhập 3 lần thúc quân chiếm lại cổng thành đều bị quân Lam Sơn liều chết đẩy lui cho đại quân vào thành. Cuối cùng Lý Nhập thấy không thể giữ thành đành tự sát, quân hàng nhà Minh được tha không giết.
Việc hạ thành Xương Giang trước ngày viện binh tiến sang góp phần đẩy nhanh hơn quá trình tiêu diệt cánh quân viện binh của Liễu Thăng – Thôi Tụ, làm tan rã ý chí chiến đấu của cánh quân viện binh của Mộc Thạnh (đi đường Vân Nam) và ý chí kháng cự của 10 vạn quân Minh của Vương Thông ở thành Đông Quan. Chiến thắng kịp thời ở Xương Giang góp phần đẩy nhanh thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Do dân các làng địa phương góp công đánh hạ thành, sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ chia đất trong thành Xương Giang cũ cho 5 làng cày cấy không phải nộp thuế gọi là “điền thành”. Ruộng này gồm 25 héc ta, được dân địa phương duy trì đến tận năm 1955
-CT-
Chi tiết

TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN VÀ TIẾP TỤC NHỮNG NGÀY THÁNG ÁC LIỆT (P1)

TRỞ THÀNH ĐẢNG VIÊN VÀ TIẾP TỤC NHỮNG NGÀY THÁNG ÁC LIỆT (P1)
Gần 6 tháng đi công tác xa đại đội, tôi theo các thủ trưởng Trung đoàn liên tục hoạt động độc lập. Chỉ mấy thầy trò đi nghiên cứu địa hình, nghiên cứu trận địa, rồi tổ chức chiến đấu giành nhiều thắng lợi.
Tôi và Quý về đơn vị, các thủ trưởng ai cũng mừng. Thủ trường Như, Chính trị viên Đại đội gọi tôi và Quý lên gặp. Chúng tôi kể lại những việc làm của mình trong thời gian đi phục vụ thủ trưởng Trung đoàn. Thủ trưởng Như cũng như các đồng chí khác trong Ban Chi huy Đại đội rất vui và nói:
- Chúng tôi biết tất cà, các thủ trưởng Trung đoàn cũng đã nói hết với chúng tôi rồi. Các đồng chí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thủ trưởng Như nói tiếp:
- Cấp ủy họp và đã xét kết nạp Đảng cho hai đồng chí ngay tại trận, ngay ở trên chốt, nhưng do địch đánh phá ác liệt quá chúng tôi không lên được. Chiều nay chi bộ sẽ tổ chức kết nạp Đảng cho hai đồng chí coi như kết nạp tại trận mong các đồng chí thông cảm.
Ngày vào Đảng của tôi và Quý là ngày 11 tháng 2 năm 1968, chúng tôi mừng lắm vì mình mới về đơn vị được một năm lại liên tục đi công tác xa ấy thế mà cấp ủy, các thủ trưởng luôn quan tâm theo dõi những công việc của mình làm. Ngày ấy vào Đảng sao khó thế. Đại đội 16 chúng tôi từ ngày vào Nam đến giờ đã hơn 2 năm, mới kết nạp được hai đồng chí, nay thêm tôi và Quý nữa là bốn.
Được vào Đảng là vinh dự, tự hào. Với thời gian dự bị là 9 tháng, phải thừ thách trong điều kiện chiến đấu ác liệt. Nếu mình không phấn đấu tiếp sẽ bị xóa tên. Vì thế, mình phải gương mẫu hơn và đơn vị sẽ còn giao nhiều nhiệm vụ khó khăn hơn.
Sau Mậu Thân 1968, địa bàn hoạt động của Trung đoàn gặp rất nhiều khó khăn. Địch đổ quân lùng sục khắp nơi, đặc biệt là nó rải quân phục kích đường tiếp tế từ ngoài vào cho Trung đoàn.
Cả một Trung đoàn bộ binh, gạo, đạn, thuốc men với một khối lượng rất lớn, chi trông cậy vào Tiểu đoàn vận tải của Bộ Tư lệnh B3. Địch liên tục phục kích. Ba đại đội đi vận tải thì chi có một đại đội mang hàng, còn hai đại đội bảo vệ và chiến đấu.
Trung đoàn phải điều thêm một Tiểu đoàn bộ binh và rút bớt lực lượng trực thuộc đi vận chuyển, nhưng chẳng được mấy chuyến đi trót lọt. Quân số thương vong đi lấy hàng cao hơn nhiều so với chiến đấu. Đồng chí Thắng, Chính trị viên Tiểu đoàn bị hi sinh khi đi lấy hàng.
Nguồn hàng mì chính, muối và một số thuốc kháng sinh trước đây Ban kinh tài các huyện mua từ vùng địch hậu, nay địch đã khóa chặt và cơ sở của ta cũng bị bắt gần hết. Một chuyến hàng từ hậu cứ vào Trung đoàn chúng tôi nếu đi suôn sẻ phải mất 7 ngày. Do khó khăn về vận tải nên chi ưu tiên vận chuyển súng đạn, thuốc men, còn lương thực thì từ tháng 3 năm 1968 đơn vị ăn toàn sắn và ngô của dân tại chỗ.
Người ốm đau không ăn được cơm thì mới có tý gạo nấu cháo. Tôi nhớ Trung đoàn trường cần cứ mỗi khi ăn sắn nẩu với ngô là nôn. Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn quyết định để bảo đảm sức khỏe cho thủ trường, Trung đoàn trưởng cần mỗi ngày được ăn một lạng gạo. Ấy thế mà thủ trường chẳng dám ăn, anh em công vụ phải tìm mọi biện pháp cải tiến để thủ trưởng ăn được. Ngô thì rang lên, sắn thì làm bánh và nướng.
Anh em đi chiến đấu hai ba ngày phải dùng sắn nướng cả vỏ cột gói mang theo chẳng khác nào vác thêm mấy quả đạn B40. sắn nướng ăn ba bốn ngày không bị thiu.
Muối cũng vô cùng khan hiếm. Mỗi người, mỗi tháng chi được ba lạng muối, anh em phải đào thêm riềng gió dã nhỏ trộn vào để ăn cho đủ. Bữa nào săn được con thú rừng, cán bộ phải đi gom mỗi đồng chí một thìa muối để nấu. Hằng ngày canh nấu chín rồi thì chia ra, người nào người nấy tự bỏ muối vào mà ăn. Vì chúng tôi đi công tác lẻ thường xuyên, nên mồi khi nhận muối về là cán bộ chia ra từng đồng chí tự bảo quản và tự chia ra mà ăn cho đủ tháng. Mì chính thì chỉ dành cho thương binh, bệnh binh ăn cháo.
Địch liên tục đổ quân lùng sục lên tận các hang đá, đổ nhiều trận địa pháo để bắn phá lung tung.
Chúng tôi phải thường xuyên di chuyển vị trí. Đại đội quân y được tăng cường, cả Đại đội vận tải đi cùng để khiêng cáng thương binh. Tất cả thương binh, bệnh binh đều nằm trên cáng để sẵn sàng di chuyển khi có địch càn. Chúng tôi thường xuyên theo dõi nắm địch để tránh né các đường hành quân của chúng.
Chiến trường vùng này toàn là lính Mỹ nên nó đổ quân ở đâu, đường hướng đi thế nào rất dễ phán đoán.
Trước khi đổ quân địch cho pháo hoặc máy bay bắn phá cả một vùng để dọn bãi, đường hành quân có máy bay dẫn đường. Địch đi thường theo phương vị trên bản đồ nên nó cứ đi thẳng. Trên đường đi, gặp dốc núi cao, đứng bao nhiêu cũng cứ đi thẳng, không vòng tránh. Gặp suối sâu, không qua được thì chúng gọi máy bay trực thăng đến tăng bo. Gặp các đường cắt ngang của bộ đội ta cũng không lùng sục theo vì sợ mìn và sợ ta phục. Địch đi theo mệnh lệnh và sự chi dẫn của trung tâm do vậy ta rất dễ tránh né. Có những lần chúng tôi đi bám địch chỉ nằm cách nó vài trăm mét, cứ ngồi chờ nó đi đường nào là chạy về báo đơn vị tránh né.
Các đơn vị cùa Trung đoàn đóng cách nhau rất xa, nhất là 2 Tiểu đoàn bộ binh có khi phải đi 2 đến 3 ngày đường.
Hệ thống thông tin liên lạc rất khó khăn chủ yếu là chạy bộ và hiệp đồng. Máy 15W của Trung đoàn chủ yếu dùng để báo cáo lên cấp trên và nhận chi thị của trên xuống. Nhưng cứ mỗi lần mở máy ra làm việc là hầu như bị lộ, chỉ một chốc là có pháo hoặc máy bay trinh sát đến, rồi máy bay phản lực ném bom và nhiều lần bị B52 đánh bom.
Vùng này chi có một dãy núi cao, cái đuôi của đèo Măng Giang xuống còn lại là bằng phăng. Địch có hệ thống ra đa quét ở đèo An Khê nên cứ mở máy ra là nó phát hiện được. Chính vì vậy nên ta chủ yếu dùng máy 2W dành cho lúc nổ súng.
Trung đoàn giao nhiệm vụ cho các đơn vị liên tục chủ động tấn công địch bằng nhiều hình thức: Phục kích, tập kích, pháo kích... đánh cả phía trước và phía sau. Mỗi lần địch đổ quân ra càn quét về hậu phương ta thì ta lại tổ chức những trận đánh giao thông trên đường 19.
Các đơn vị trực thuộc như công binh, trinh sát, thông tin, truyền đạt, thay nhau 5 đến 7 người bám đường 19, đánh mìn, bắn phá đường ống dẫn dầu của địch. Khi ống bị bắn thủng, dầu chảy lênh láng xuống sông làm cá chết trôi trắng sông cả tuần.
Tháng 6 năm 1968, địch đổ một Đại đội 5 khẩu pháo 105 ly xuống để bắn chi viện cho một Tiểu đoàn lính Mỹ đi càn. Nó vừa đổ xong, lập tức Trung đoàn cho 2 khẩu cối 82 tập kích, cả 5 khẩu pháo đều bị hỏng nặng, lính bị thương vong nhiều, địch phải cho máy bay lên cẩu pháo về.
Khu vực chúng tôi hoạt động rộng lắm, có nhiều chỗ pháo binh của địch ở các căn cứ không thể bắn tới nên mỗi lần đi càn quét địch đều đổ pháo 105 ly xuống để hỗ trợ.
Những tháng đầu mùa mưa là khó khăn nhất về đạn dược. Lúc nào Trung đoàn cũng hô hào đánh tiết kiệm, thiếu nhất là đạn hỏa lực B40-B41, ĐKZ và cối 82. Đơn vị đánh giao thông mà đạn B40, B41 chỉ để dành bắn xe tăng, còn xe chở dầu, chờ đạn thì bắn AK và lựu đạn, thủ pháo.
Cuối mùa mưa năm 1968, máy bay địch rải chất độc hóa học dọc hai bên đường 19 làm cho cỏ cây chết hết. Sau đó cho mảy máy bay phun xăng rồi đốt cháy hết tạo nên một dải trống rỗng khoảng 300 đến 400 mét. Việc đánh giao thông của ta gặp rất nhiều khó khăn. Trước đây bộ đội nằm cách mép đường có mười đến mười lăm mét nay phải nằm cách xa 300 đến 400 mét.
Tổ chức một trận đánh hết sức công phu, phải hiệp đồng nhiều bộ phận, nhiều loại hỏa lực, nhiều đơn vị với nhau. Trung đoàn tổ chức đặt một đài quan sát trên núi cao theo dõi lưu lượng xe đi trên đường, cự ly, khoảng cách, tốc độ và cách tổ chức bảo vệ của nó. Chúng tôi có 4 trinh sát và 4 lính truyền đạt đặt đài quan sát này.
Cứ hai ngày chúng tôi về báo cáo với Trung đoàn một lần vì không có máy 2W. Hằng ngày chúng tôi theo dõi, thấy địch hoạt động như sau:
Sáng ra, các tổ công binh đi kiểm tra, dò mìn trên đường và cả hai bên đường. Tiếp đó, LI9 bay thật thấp dọc đường quan sát rồi đến 2 chiếc trực thăng HU1A bay thấp 2 bên đường từ An Khê đến PLâycu rồi quay lại. Sau đó, lính bảo vệ đường rải ra chốt những điểm xung yếu mà ta hay tấn công. Mỗi điểm một tiểu đội lính và một chiếc xe M113. Khoảng gần 8 giờ sáng, máy bay đi trước dẫn đường, cho các đoàn xe vận tải đi sau.
Nắm được quy luật hoạt động của địch như vậy, Trung đoàn cho Đại đội công binh dùng một Tiểu đội bẩn tỉa, bắn lính địch đi dò mìn. Súng bắn tia ở cự ly 500 đến 600 mét thì bắn phát nào trúng phát đó. Cứ mỗi sáng diệt vài tên, làm cho lính công binh của địch phát khiếp không dám đi dò mìn nữa.
Sau nhiều lần đánh cấp đại đội và tiểu đoàn, Trung đoàn quyết định tổ chức một trận đánh cấp Trung đoàn, lực lượng chủ yếu vẫn là 2 Tiểu đoàn bộ binh. Nhưng trận đánh này huy động toàn bộ các Đại đội trực thuộc tham gia.
Tôi nhớ hôm đó là một ngày cuối tháng 7 năm 1968, trận phục kích vận động đánh giao thông trên đường 19 đoạn phía tây cầu Xà Guồng.
Hơn 8 giờ sáng, đài quan sát báo về Trung đoàn, đoàn xe của địch hơn 100 chiếc, có xe tăng hộ tống đã vượt qua đèo An Khê, trước trận địa phục kích của 2 Tiểu đoàn. Địch có 2 cụm lính, mỗi cụm 2 chiếc xe M113 làm nhiệm vụ canh phòng và sẵn sàng tác chiến bảo vệ đoàn xe trên đường hành quân.


Theo hiệp đồng, khi đoàn xe địch chạy lọt vào đội hình, chiếc đầu tới tổ chặn đầu thì lập tức dùng ĐKZ bắn chặn đầu và bắn khóa đuôi. Hai tiểu đoàn dùng ĐKZ 82 kết hợp B41 diệt hai cụm xe tăng cảnh giới của địch để bộ đội xung phong đánh thẳng vào đoàn xe.


Đường vận động của bộ đội khá xa, đến 500 mét. Khi bộ đội vận động tấn công, 2 khẩu cối 82 bắn kiềm chế vào hai trận địa pháo để đảm bảo cho bộ binh rút quân an toàn về phía sau.


Khi cối 82 bắn, lực lượng công binh cho nổ mìn ở trận địa giả để địch cho máy bay lên oanh tạc và pháo phản pháo vào trận địa giả, tạo điều kiện cho pháo binh rút quân ra khỏi vòng nguy hiểm.


Tôi ngồi ở đài quan sát cùng với anh em trinh sát theo dõi trận đánh. Trận đánh đúng theo ý định của ta, giống như diễn tập. Tiếc thay đoàn xe chạy cách nhau quá xa nên chi có 2 phần 3 lọt vào đội hình. Quân ta nhảy ra mặt đường tiêu diệt đoàn xe, bắn cháy hơn 60 chiếc, trong đó có một số xe tăng, xe bọc thép.
Một số anh em nhảy vào ca bin xe, lấy được hơn 10 khẩu súng AR15 và một số quân dụng khác. Đoàn xe bốc cháy hàng tiếng đồng hồ làm đoạn đường tắc nghẽn.Buổi chiều địch cho xe tăng, xe ủi lên húc những chiếc xe cháy xuống vệ đường. Trận đánh kết thúc. Khi về phía sau rút kinh nghiệm, từ cán bộ đến chiến sỹ ai cũng thừa nhận đây là một trận đánh hay, hiệu quả cao, không có thương vong.
Tổng kết 6 tháng hoạt động của đầu năm 1968, Trung đoàn tôi đã bắn cháy 660 xe quân sự các loại. Trong đó có một số xe tăng, xe bọc thép M113, được Bộ Tư lệnh quân giải phóng miền Nam đánh giá là Trung đoàn đánh giao thông giỏi nhất toàn Miền. Tổng số xe của Trung đoàn diệt được bằng 1 phần 4 số xe Mỹ Ngụy bị quân giải phóng tiêu diệt.
Địch choáng váng trước trận đánh thần kỳ của Trung đoàn 95, chúng đổ quân đi càn quét ra phía sau của ta. Trung đoàn cho công binh, trinh sát dùng nhiều tổ nhỏ lẻ, cài mìn đánh phá đường ống dẫn dầu trên đường 19. Tổ chúng tôi vẫn liên tục bám đài quan sát để theo dõi mọi hoạt động của địch từ An Khê đến đèo Mang Giang. Thực chất thì chỉ nắm được một đoạn đường tây cầu Xà Guồng vì địa hình đoạn này ta mới triển khai được trận địa phục kích.
Các đoạn khác dốc ngược, bộ đội không thể vận động được. Nếu ờ phía bên kia đường đánh sang thì thuận lợi nhưng toàn dốc cao, không có nơi dấu quân, đánh xong không biết chạy về đâu.
Chúng tôi ờ đài quan sát theo dõi quy luật hoạt động của một Trung đội lính Mỹ, có xe tăng hỗ trợ để bảo vệ cầu Xà Guồng.
Sáng ra, địch trên hai chiếc M113 đi tuần tra trên tuyến đảm nhiệm. Nếu đường an toàn không có vấn đề gì là chúng về đậu xe thành hai điểm, cởi quần áo chỉ mặc có một cái quần lót chơi bóng chuyền. Thằng nào thằng nấy to cao, béo đỏ chia nhau ra chơi bóng hàng tiếng đồng hồ rồi nhảy xuống suối tắm.
Địa hình xung quanh sân bóng, địch cho xe ủi bằng phẳng và có một con suối bao bọc phía ngoài. Bên này bờ suối vào tới bìa rừng dài khoảng 400 mét, cây cối bị đốt cháy sạch. Đang mùa mưa nên có nhiều rãnh nước chảy xói mòn, một số cây cháy chưa hết còn ngổn ngang.
Chúng tôi báo cáo với Trung đoàn về quy luật hoạt động của Trung đội lính Mỹ và địa hình, địa vật xung quanh cầu Xà Guồng, đặc biệt là địa hình tiếp cận sân bóng chuyền của địch. Sau khi nghe báo cáo, Trung đoàn quyết định tổ chức một trận tập kích diệt Trung đội Mỹ này.
Trung đoàn giao cho trinh sát dẫn cán bộ đại đội, cán bộ Tiểu đoàn 2, ban đêm mò vào nghiên cứu trận địa và xác định cách đánh. Qua nghiên cứu thực địa và tình hình cụ thể, Trung đoàn quyết định dùng một Trung đội bộ binh tăng cường do Đại đội trường Đại đội 3 chỉ huy. Trung đội độn thổ sẵn, khi địch xuất hiện dùng hỏa lực và súng bộ binh tập kích.
Hôm đó, vào giữa tháng 7 năm 1968, tối đến Đại đội 3 tiền nhập trận địa lợi dụng các rãnh đất, các loại cây cháy dở anh em vẹt đất nằm độn thổ, 12 người mà chi có 3 khẩu súng B40. số còn lại ngụy trang cho anh em chu đáo rồi rút ra bìa rừng nằm để chờ bảo vệ cho anh em khi đánh xong rút quân được an toàn.
https://www.facebook.com/QuanDoiVietNam/posts/1345391182238336:0
#CCB_Dương_Công_Hợi
#Vnmilitaryhistory
#KGB
Album NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CHINH CHIẾN
Chi tiết

Tạ Đình Đề - Một Huyền thoại tình báo Việt Nam

Hồi những năm 70 ở Hà Nội, có lẽ ai cũng quen thuộc với câu:
"Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước làm gián điệp nay về với ta..."
Đó là cả một câu chuyện về một sát thủ do CIA đào tạo , được cảm hóa và trở thành một cận vệ nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với biệt tài bắn súng cực chuẩn.
Tạ ĐÌnh đề một cái tên huyền thoại
Tạ Đình Đề một cái tên huyền thoại
Chi tiết

Bức ảnh huyền thoại và câu chuyện đằng sau nó về sự hòa giải dân tộc

BỨC ẢNH ẤY...
Phần 1: Chiến tranh
Tháng 4-1973. Chiến sự được tạm dừng ở vùng ranh giới hai miền. Ông Chu Chí Thành, phóng viên ảnh của Thông tấn xã Việt Nam đến chốt Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Lúc này, hai bên ranh giới vẫn chĩa súng về phía nhau.

Chi tiết

Phong trào 'Thành thật xin lỗi Việt Nam' và hiện tại ra sao

Phát ngôn của tân tổng thống Hàn vốn là cựu lính dù là một đòn chính trị đánh lạc hướng dư luận, kích động tinh thần dân tộc cực đoan để lái dư luận sau bầu cử và bê bối chính trị. Tuy nhiên cách mà tổng thống Hàn chọn lại là cách ngu nhất trong số các lựa chọn. Việc tung hô tinh thần dân tộc và chà đạp dân tộc khác là hành động vô cùng ghê tởm, nhất là khi Việt Nam và Hàn đã cùng nhau gác qua quá khứ để cùng nhau tiến đến tương lai. Bản thân nước Mỹ hay Pháp dù từng có chiến tranh trực tiếp với VN nhưng họ đều có cách cư xử đúng mực trên hình thức ngoại giao và luôn nhắc đến việc chiến tranh với VN là sai lầm chứ không hề tự hào.Có chăng là mấy anh cựu binh Mỹ hay tự hào mình từng chiến đấu ở VN và...còn sống trở về !

Bản thân người Hàn Quốc hoàn toàn không biết những gì mà binh sỹ của họ đã gây ra tại VN mãi đến đầu những năm 2000 khi các nhà báo đến VN tiếp xúc và ghi lại những gì lính Hàn làm tại đất nước này cả Hàn Quốc mới lên cơn chấn động, những kẻ họ xem là anh hùng hóa ra là lũ quỷ khát máu man rợ cùng cực. Và từ đó những người dân tiến bộ của Hàn Quốc đã phát động phong trào " Thành thật xin lỗi Việt Nam "

Phong trào “Thành thật xin lỗi Việt Nam” được hình thành tại Hàn Quốc hơn 10 năm nay, sau loạt phóng sự của nữ nhà báo Ku Su-Jeong đăng trên tờ The Hankyoreh21, về những vụ thảm sát của quân đội Hàn Quốc tại Việt Nam. Cách đây 50 năm, lính đánh thuê Hàn Quốc tham gia vào cuộc chiến tại Việt Nam, gây ra nhiều vụ thảm sát hàng nghìn người dân vô tội ở Bình Định, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Ngãi. Nhiều nạn nhân phải chôn cùng một nấm mồ tập thể, nhà cửa bị phá hủy. 

Nhà thơ Lee Jong Hyung - trưởng đoàn, tổng thư ký Hội Nhà văn Jeju nói : Hiện chính phủ lẫn các cựu binh Hàn Quốc đều chưa thừa nhận sự thật thảm sát thường dân Việt Nam, vậy nên đương nhiên họ cũng chưa đưa ra lời xin lỗi chính thức. Hội Nhà văn chúng tôi tuy sức lực nhỏ bé nhưng rất mong muốn được đóng góp nỗ lực của mình để thúc giục Chính phủ Hàn Quốc nhanh chóng xác minh sự thật và chính thức xin lỗi.

Chỉ có điều đó mới là đạo lý con người, là phép đối đãi xứng đáng với các nạn nhân. Chỉ có con đường đó mới là phương thức hòa giải chân chính, là con đường hòa bình hướng tới tương lai của hai quốc gia, hai dân tộc. Chính vì lẽ đó, chúng tôi đã không ngừng nỗ lực hoạt động suốt 10 năm qua và trong tương lai sẽ tiếp tục quan tâm, nỗ lực hơn nữa để giải quyết vấn đề này.

Ảnh Những người Hàn Quốc sang Việt Nam dâng hương, hoa và quỳ lạy trước bia tưởng niệm những người dân Bình Hòa (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) bị lính Đại Hàn thảm sát cách đây 50 năm - Ảnh: TRẦN MAI


-CT-
Chi tiết

Nhân dịp ngày sinh Bác - Vài chia sẻ về cuộc đời Bác

Có thể bạn chưa biết
Bác Hồ trong suốt thời gian bôn ba khắp thế giới trải qua rất nhiều nghề, là một phụ bếp suýt được đầu bếp nổi tiếng nhận làm học trò, làm trợ giáo, giặt ủi, làm vườn, làm thuê tại Mỹ,dọn dẹp khách sạn, làm bánh, làm báo, phóng viên ảnh, nghiên cứu.
Chi tiết

Những khoảnh khắc cuối cùng của người Mỹ ở Sài Gòn

Morefield là người cuối cùng rời sứ quán. Lúc chiếc máy bay chở anh đi bay lên, anh nhìn đồng hồ: 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Morefield kể lại: "Lúc máy bay bay trên bầu trời Sài Gòn, tôi cố ghi trong đầu cảnh thành phố lúc bấy giờ. Một vùng ngoại ô Mỹ đâu đó. Bình yên, phẳng lặng. Trừ một vài đám cháy ở đằng xa. 45 phút sau, chúng tôi đã ở trên tàu. Mặt trời ló sáng. Một đoàn tàu đánh cá chở đầy người tị nạn đậu dài bên bờ biển. Chúng tôi vừa đặt chân xuống boong tàu thì sĩ quan an ninh hải quân đã tước súng chúng tôi. Tôi không có thẻ căn cước trong người. Họ hỏi tôi là ai. Có người nào báo lãnh cho tôi không. Lính thủy đi ra bệ tàu, vứt vũ khí của chúng tôi xuống biển".
Chi tiết