• Trang chủ
  • Một thời rừng SÁC Phần 5: CHÂN DUNG NỮ LIỆT SỸ

Một thời rừng SÁC Phần 5: CHÂN DUNG NỮ LIỆT SỸ

MỘT THỜI RỪNG SÁC
Phần 5: CHÂN DUNG NỮ LIỆT SỸ
Bộ ghế đá đặt cạnh bờ ao, trên lưng dựa một băng dài có khắ sâu mấy vần thơ:
  • Bâng khuâng tấc dạ niềm thương nhớ
  • Lộng gió trên sông đẹp bóng cờ
  • Mãi mãi hiên ngang Rừng Sác đứng,
  • Mỗi người ngã xuống, một bài thơ.
Bé Hùng Việt lên 7 tuổi ngồi đánh vần ê a từng chữ, rồi ngước mặt hỏi mẹ là bác sỹ Kim Hương:
Câu hỏi ngộ nghĩnh của trẻ thơ làm cả nhà đều cười. Ông ngoại chậm rãi giải thích cho cháu:
Trong những ngày ác liệt năm 1969, chị lại sinh thêm một cháu trai sau 15 ngày đã phải gởi vào ấp chiến lược cho một cơ sở là ông Bảy đóng ghe trong Phước Thái rồi chỉ 3 tháng sau, chị Tư Mến hy sinh.


- Mẹ à, ông ngoại, bà ngoại, bố mẹ cùng đi bộ đội đánh giặc, sao chỉ có mình bà ngoại được là liệt sỹ, mà bố và ông ngoại không được làm liệt sỹ?
- Bà ngoại con đi đánh giặc ngoại xâm, đã anh dũng hi sinh ngoài chiến trường nên mới được truy tặng là liệt sỹ.
Bé lại liến thoắng hỏi: “Anh dũng hy sinh là thế nào, ngoại kể chuyện đặc công Rừng Sác đi ngoại…”
Những hình ảnh của một thời chiến tranh ác liệt như hiện rõ mồn một trước mắt anh Lê Bảy, nay đã có cháu ngoại.
Trong những ngày đầu năm 1965, sau khi dựng lên sự kiện Ma - đốc ở vịnh Bắc Bộ, giặc Mỹ cho máy bay ném bom vào thành phố Nam Định bắt đầu mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc hậu phương. Và ở miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, quân xâm lược Hoa kỳ chuyển thành chiến tranh cục bộ quy mô bằng sức mạnh của một siêu cường. Cả nước sôi lên, hừng hực khí thế chống xâm lược. Hai miền Nam - Bắc đều hành quân ra trận.
Trên đồi cọ của đất Vĩnh Phú, nơi sơ tán một bộ phận của bệnh viện Việt – Xô, ông Hoàng Minh Chấp, một đ ảng viên của Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ngồi dặn dò hai cháu:
- Tao giờ già rồi, gần cả cuộc đời hai lần bị nhốt xà lim Côn Đảo, giờ không làm gì được, chỉ ngày Bắc đêm Nam. Hai đứa bây còn trẻ, nếu được phân công đi B góp sức cùng miền Nam đánh Mỹ thì cứ lên đường, để con Hương, thằng Hùng lại, tao và bà mày nuôi dạy. Dù sao tao vẫn phải làm tròn bổn phận một chiến sỹ c ộng s ản già.
Đại uý Lê Bảy và vợ là chuẩn uý Nguyễn Kim Mến, quân y sỹ mới ra trường dắt hai xe đạp xuống đồi, ra ga Chí Chủ để trở về Hà Nội. Bé Hương vừa lên 4, bé Hùng được 2 tuổi ngồi trên vỉa hè vẫy tay dặn mẹ: “Tết, ba má về với tụi con nhé”.
Suốt mấy tháng trường mang vác nặng tập hành quân từ Hoà Bình đến Thanh Hoá, với ba lô gạch đầu tiên chỉ 10 viên, nâng dần trọng lượng lên đến 25 rồi 30 và sau cùng thay vào đầy đủ trang thiết bị, tăng võng, ny lông, lương thực súng đạn để rồi đoàn người âm thầm lặng lẽ trên đường Nam tiến vượt Trường Sơn theo tiếng gọi của non sông. Khi vượt qua ngọn đồi cao 1001 mét gặp bạn bè ngược chiều, Lê Bảy chỉ kịp ghi vội mấy dòng qua bao thuốc lá gửi ra miền Bắc: “Nếu em có vượt Trường Sơn nên cắt ngắn mái tóc dài đến tận gót đi sẽ khỏi bận bịu trên đường đầy gai góc. Hẹn sẽ lại gặp nhau…” Vì anh còn nhớ rõ trong buổi chia tay lần cuối cùng ở ga Hàng Cỏ để lên đường về Nam, Kim Mến đã ứa lệ qua vai, nói khẽ một câu đầy quyết tâm: “Em cũng sẽ sắp xếp 2 con gởi lại miền Bắc, theo gót anh vượt Trường Sơn vì mình là đứa con của miền Nam tập kết…”
Năm 1967 Lê Bảy đang cùng anh em trung đoàn đặc công bám trụ chiến trương Rừng Sác thì được điện anh Năm, nhắn phòng cán bộ: “R quyết định bổ sung về Đoàn 10 quân y sỹ Kim Mến, đang trên đường giao liên xuống vùng ven…”.
Nhiều đêm chờ đợi khó ngủ, một buổi sáng mờ sương, Hoàng một mắt, chiến sỹ giao liên trạm Bà Bông, Phước An cắt rừng từ Phước Thọ đưa xuống tận căn cứ Rạch Tràm một phụ nữ vai mang ba lô con cóc, mặc bộ bà ba đen, tóc ngắn ngang vai, đúng là tân binh C mới bóc tem nói theo ngôn ngữ chiến trường, từ hậu phương lớn chi viện vào, và R tăng cường về chiến khu rừng ngập mặn này. Đó chính là Nguyễn Kim Mến, người đã từ chối quyết định cử đi đại học lấy bằng bác sỹ với lý do đơn giản: “Tôi tự nguyện về Nam chiến đấu, sẽ đi học sau cũng được”. Nước mắt lưng tròng mừng rỡ không phải vì được găp mặt lại người chồng thương yêu mà còn vì thương nhớ hai đứa con thơ đang ở cách xa vạn dặm gửi lại ông bà cùng tập kết, còn ở lại miền Bắc.
Vừa đến đơn vị, đang còn nước da mét vàng do sốt rét trong những ngày Trường Sơn, ngay hôm sau chị Mến đã đề nghị được mổ cho chiến sỹ Chu Văn Khí bị một đầu đạn ép tay xuyên cổ, còn cộm dưới da, vừa trở về đơn vị sau 25 ngày đêm đói khát vì bị thương, lạc đội hình trong trận đánh trên sông Lòng Tàu, toàn thân suy kiệt mình đầy thương tích, chỉ còn cặp mắt sáng, sống cầm hơi bằng đọt chà là và con vọp sống. Do điều kiện thiếu thốn của chiến trường, chỉ với lưỡi dao lam, chai thuốc đỏ, chị đã bạo tay rạch da cổ, gắp viên đạn ra, rửa sạch đưa cho Khí làm kỷ niệm.
Và từ thành tích bé nhỏ ban đầu này, người nữ quân y đã nhanh chóng hoà nhịp cùng đội hình trung đoàn đặc công, lặn lội khắp nơi, từ tiền phương Ông Kèo đến tuyến sau Thị Vải. Những đêm thức trắng kéo cá nuôi thương binh, đột vào ấp chiến lược rut gạo nuôi quân, đội bom đạn phản kích ác liệt năm Mậu Thân 1968. Sáu lần trong đêm bị B52 cầy xới, chị và quản lý Ba Hùng một xuồng vượt khói lửa về Sở chỉ huy tại Tắc Chợ, báo cáo tình hình.
Nơi nào có mặt chị Tư Mến là nơi đó có niềm vui an ủi động viên chiến sỹ từ vết thương sấu cắn, đến nồi cháo cá thòi lòi… Chị đã cùng hoà hơi thở, nhuộm màu da đen nước mặn với chiến sỹ Rừng Sác anh hùng, vẫy vùng lập chiến công.
Hôm đó tại căn cứ quân y ở Tắc Kỳ Quang trên bờ sông Thị Vải, chiếc trực thăng OH6 (thường gọi là Ong Ruồi) rà qua rà lại phát hiện dấu vết lạ, nó ném xuống mặt sình lầy 2 quả pháo màu xanh, đỏ chỉ điểm rồi vút bay đi. Đại đội phó Tư Mến liền báo cho đơn vị:
- Các chú thương binh mau chóng thoát ra khỏi khu vực này ngay.
- Chị Tư chạy trước đi “cá lẹp” tới giờ. - Một thương binh nói.
- Yên trí! Chị thu dọn dụng cụ một chút, sẽ đi ngay.
Chưa đầy 3 phút sau, từng cặp trực thăng phóng pháo thân dẹp lao tới. Hàng loạt hoả tiễn 90 ly tuôn xuống như mưa, cả khu căn cứ xác xơ, hầm hố tan tành khét lẹt mùi lá xanh quện với sình lầy cùng thuốc súng. Chị Tư Mến nằm úp mặt sóng soài, với một chân gẫy nát, bên vai vẫn còn nặng trĩu túi cứu thương, chiếc khăn rằn quấn cổ, chiếc ba lô cá nhân rách nát tung toé. Vẫn còn nhận được hình dáng từng mảnh của ba chiếc áo gối nhiều màu sắc với đường kim mũi chỉ thêu khá đẹp, văng dính lên đọt chà là, cành cây đước. Anh Lê Bảy nhớ lại cách đây vài tháng có lẽ là lần gặp nhau cuối cùng ở căn cứ hậu cần, vào một đêm nước lớn ngập rừng, trăng soi qua kẽ lá, nằm gối tay nhau trên sạp đước chị đã tâm tình bên vai anh: “Em còn ít vải trắng và chỉ mua từ Hà Nội, đã thêu cho 3 con 3 mặt áo gối khá đep. Tuy chiến tranh còn ác liệt nhưng chúng mình tin tưởng ngày thắng lợi sẽ gặp lại vì đã đặt tên con là Lê Toàn Thắng, phải không anh…”.
Từ lòng chảo Nhơn Trạch một đêm se lạnh của mùa gió bấc, Lê Bảy nhận được tin sét đánh ấy. Không dằn được lòng mình, anh Bảy đã chui xuống hầm địa đạo trước ánh sáng ngọn đèn cầy khóc âm thầm, ôn lại hình ảnh người vợ thân yêu đã không còn nữa. Đọc lại dòng chữ nguệch ngoạc của chính trị viên phó Hùng, gởi đến: “Em đã chôn cất chị tử tế dưới gốc chà là, chỉ còn duy nhất chiếc nhẫn kỷ vật gởi lại. Mong anh bớt đau buồn…”.
Một tổn thương quặn đau chưa nguôi, thì 5 ngày sau một tin buồn khác lại đến: “Chính trị phó quân y Hùng đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống càn, để bảo vệ thương binh tại Tắc Kỳ Quang...”.
Bốn tháng sau đó, có quyết định của R. gọi đồng chí quân y sỹ Nguyễn Kim Mến đi học bổ túc bác sỹ. Sự thực cái gì phải đến thì nó đã đến, người phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi vượt Trường Sơn về Nam, là người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền rất đỗi nhớ thương 3 đứa con của mình hơn ai hết đã lao ra trận với niềm tin chiến thắng, và hôm nay đã trở thành liệt sỹ Rừng Sác. Cùng trong trận đánh này, có bác sỹ Tư Quang và y tá Phương Linh, đã ngã xuống để bảo vệ thương bệnh binh.
Anh Lê Bảy lúc này là trung đoàn trưởng, trong nỗi đau riêng cùng với mất mát chung của đơn vị, anh tạm quên đi, cùng anh em lao vào chiến đấu ngày đêm không nghỉ. Từ khu A lội sông Lòng Tàu qua khu B, chỉ huy tác chiến và đơn vị liên tiếp vang dậy những chiến công nhận chìm tàu giặc nơi bến cảng Rạch Dừa, Cát Lái, Nhà Bè. Đốt cháy nhiều kho xăng, nổ tung nhiều kho đạn, hết chiến công này đến chiến công khác có lẽ anh Bảy cũng làm vui lòng người vợ thân thương và bao đồng chí đang vĩnh viễn nằm sâu dưới sông nước, sình lầy.
(CÒN TIẾP…)
Đại tá Lê Bá Ước nguyên Đoàn trưởng đoàn 10 đặc công Rừng Sác - MỘT THỜI RỪNG SÁC.